Hiển thị các bài đăng có nhãn giải pháp phục hồi ắc quy chì. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn giải pháp phục hồi ắc quy chì. Hiển thị tất cả bài đăng

Thứ Ba, 18 tháng 12, 2012

Trung Quốc có thực hiện được "cuộc cách mạng khí đốt"?



Phuchoiacquy - Theo đài “Tiếng nói nước Nga”, 3 nước là Canada, Mỹ và Australia sẽ không cho Trung Quốc tiến hành "cuộc cách mạng khí đốt". Về mặt thương mại cũng như về mặt chính trị, các nước này hoàn toàn không có lợi nếu chuyển giao cho Trung Quốc công nghệ khai thác khí đá phiến sét và khí metan mỏ than. Điều này đã được Tổng giám đốc Quỹ an ninh năng lượng quốc gia Konstantin Simonov công bố với đài "Tiếng nói nước Nga".
Trong thời gian qua, các công ty dầu khí của Trung Quốc đang ngày càng mở rộng hiện diện trong thị trường khí đốt không truyền thống toàn cầu. Tập đoàn dầu khí Trung Quốc - PetroChina đang đầu tư vào dự án chung với công ty Canada Encana 2,2 tỷ USD, khai thác dự trữ khí đá phiến sét ở tỉnh Alberta của Canada. PetroChina cũng đã công bố việc mua lại cổ phần trong hai dự án về khai thác và hóa lỏng metan mỏ ở Australia và đã chi trả 1,63 tỷ USD. Ngoài ra, Trung Quốc đã sở hữu cổ phần trong các dự án với Hoa Kỳ, Anh và Australia để sản xuất hóa lỏng khí tự nhiên, bao gồm cả từ khí đá phiến sét.
Trước thực trạn đó, các nhà chức trách Canada đã thông qua dự án, công ty dầu khí Trung Quốc CNOOC sát nhập với tập đoàn Canada Nexen với 15,1 tỷ USD (tập đoàn này chuyên khai thác hydrocarbon ngoài khơi).
Trong các dự án này, điều trước hết mà Trung Quốc cần là công nghệ. Trung Quốc sẽ tiến hành "cuộc cách mạng khí đốt" của họ, nhưng các đối tác của Trung Quốc sẽ tiến hành các ván bài riêng.
Ông Konstantin Simonov cho biết, “Người Canada, người Australiavà thậm chí nhiều người Mỹ không muốn chia sẻ với Trung Quốc các công nghệ này. Tất nhiên, họ cần tiền, do đó, người Canada sẽ sử dụng các mô hình liên quan đến sự tham gia thương mại mà không tiếp cận với các giải pháp kỹ thuật”.
Các đối tác của Trung Quốc sẽ làm bất cứ điều gì để hạn chế xuất khẩu công nghệ khai thác khí đốt không truyền thống và công nghệ sản xuất khí hóa lỏng sang Trung Quốc. Một trong những nguyên nhân là lý do chính trị. Sau tất cả, Hoa Kỳ coi Trung Quốc là đối thủ địa chính trị chủ yếu của mình, còn ảnh hưởng chính trị của Trung Quốc ở Canada và Australia là vô cùng to lớn. Có một lý do khác hoàn toàn mang tính chất thương mại.
Theo ông Konstantin Simonov, “hiện nay rất phổ biến khái niệm xuất khẩu LNG từ Mỹ và Canada. Dự báo kim ngạch xuất khẩu từCanada được phóng đại rất nhiều, nhưng là có thật. Canada tin tưởng vào khả năng cung cấp LNG xuất khẩu sang Trung Quốc. Và như vậy, tất nhiên, Canada không nên cung cấp cho Trung Quốc khả năng kỹ thuật để xây dựng ngành sản xuất riêng của Trung Quốc. Bởi vì nếu Trung Quốc sẽ tăng sản xuất khí độc đáo của mình, khối lượng xuất khẩu sang Trung Quốc sẽ giảm. Điều này có nghĩa là cơ hội các công ty Canada xuất khẩu LNG cho Trung Quốc tự nhiên sẽ giảm".
Điều này cũng đúng trong trường hợp của Australia. Sau tai nạn công nghệ tại nhà máy "Fukushima", LNG của Australia xuất sang Nhật Bản đã giúp thỏa mãn cơn khát năng lượng. Các chuyên gia bắt đầu nói chuyện nghiêm túc về khả năng tăng nguồn cung cấp khí đốt tự nhiên của Australia sang Trung Quốc. Vì vậy, trong các dự án với Australia có nguy cơ cao gặp phải các rào cản đối với sản xuất, nhập khẩu công nghệ và hóa lỏng khí metan mỏ than. Trung Quốc đã tiến hành những động thái đầu tiên khá mạnh trong "mưu đồ công nghệ." Nhưng kết quả của âm mưu này có thể sẽ không rõ ràng.
NLVN

"An toàn hạt nhân cần được quan tâm thường xuyên và liên tục"



Phuchoiacquy - Sau ba ngày làm việc, ngày 17/12, Hội nghị quốc tế về an toàn hạt nhân đã bế mạc tại thành phố Fukushima, miền Đông Bắc Nhật Bản, với lời kêu gọi tiếp tục nỗ lực nhằm đảm bảo an toàn cho các cơ sở hạt nhân và hợp tác đánh giá tác động của hiện tượng rò rỉ phóng xạ trong sự cố hạt nhân.

Toàn cảnh hội nghị quốc tế về an toàn hạt nhân. (Nguồn: AFP/TTXVN)
Hội nghị do Chính phủ Nhật Bản và Cơ quan Năng lượng Nguyên tử quốc tế (IAEA) đồng tổ chức. Các tài liệu kết luận của hội nghị nêu rõ, tăng cường an toàn hạt nhân cần được quan tâm thường xuyên và liên tục.
Thảm họa hạt nhân hồi tháng 3/2011 ở Fukushima là lời nhắc nhở về tầm quan trọng của việc đề cao cảnh giác đối với những yếu tố khách quan như: lũ lụt, động đất và sóng thần, đồng thời cho thấy sự cần thiết phải phát hiện những nguy cơ và tìm ra biện pháp ứng phó thích hợp trong công tác bảo vệ các nhà máy điện hạt nhân.
Các đại biểu tham dự hội nghị đều nhất trí rằng đã đạt được "tiến bộ đáng kể" trong Chương trình Hành động của IAEA về An toàn hạt nhân, được soạn thảo hồi tháng 9/2011.
Kế hoạch này yêu cầu các nước thành viên thực hiện đánh giá an toàn của các nhà máy điện hạt nhân và nâng cao tính hiệu quả trong hoạt động của các cơ quan giám sát, nhằm tăng cường an toàn hạt nhân sau các thảm họa hạt nhân của thế giới như vụ Fukushima vừa qua và trước đó là vụ Chernobyl năm 1986.
TTXVN

Xóa sổ những nỗi lo thường trực trong quản lý thủy điện



Phuchoiacquy- Mối quan tâm sâu sắc của các nhà khoa học và của người dân về thủy điện - thủy hại có thể sẽ được giải tỏa khi mà kiến nghị của Bộ Công Thương về việc xóa sổ một loạt dự án thủy điện nhỏ được chấp thuận.
Sở dĩ Bộ Công Thương phải thổi còi vì lâu nay, quyền cấp phép đầu tư thủy điện được phân cấp cho địa phương. Ngày 12/12 Bộ Công Thương có báo cáo Thủ tướng Chính phủ kết quả rà soát quy hoạch và đầu tư xây dựng các dự án thủy điện trên cả nước. Theo đó, Bộ này đã kiến nghị Thủ tướng chỉ đạo loại bỏ 324 dự án thủy điện nhỏ.
Cụ thể, ngoài 64 dự án thủy điện nhỏ (có tổng công suất 226MW) đã được các tỉnh thống nhất loại bỏ, Bộ Công Thương kiến nghị Thủ tướng Chính phủ chỉ đạo loại bỏ thêm 260 dự án thủy điện nhỏ nữa (có công suất tổng cộng 434MW) và 3 điểm được cho là có tiềm năng nhưng chưa có nhà đầu tư đăng ký từ khi phê duyệt quy hoạch hoặc đã nghiên cứu đầu tư nhưng hiệu quả thấp...
Trước đó, từ tháng 12/2009, Bộ Công Thương đã phối hợp với UBND các tỉnh có thủy điện rà soát, đánh giá quy hoạch và đầu tư xây dựng các dự án thủy điện trên địa bàn. Trong đó, Bộ Công Thương đã yêu cầu nghiên cứu điều chỉnh hợp lý quy mô, tức là loại bỏ các dự án hiệu quả thấp, quy mô nhỏ, có tác động tiêu cực đến môi trường - xã hội, ảnh hưởng đến các quy hoạch khác, không thuận lợi về giao thông và hòa lưới điện.
Trên cơ sở đó, UBND các tỉnh đã thống nhất loại khỏi quy hoạch 117 dự án thủy điện (có tổng công suất 617MW, không xem xét bổ sung vào quy hoạch 156 vị trí đã xác định thông qua nghiên cứu quy hoạch, có tiềm năng khai thác khoảng 335MW).
Ngoài các dự án đã được các tỉnh thống nhất loại khỏi quy hoạch, cả nước hiện có tổng số 1.110 công trình, dự án thủy điện với tổng công suất lắp máy khoảng 25.291MW, kể cả các công trình đã được xây dựng trước khi lập quy hoạch chung.
Bộ Công Thương cho biết, các dự án thủy điện nhỏ phân bố rải rác, chủ yếu thuộc các khu vực có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn và đặc biệt khó khăn, hạ tầng giao thông và lưới điện còn nhiều hạn chế; nhu cầu phụ tải tại chỗ thấp nên phải truyền tải điện năng đi xa, gây tổn thất lớn, làm giảm hiệu quả đầu tư... Vì vậy, để đảm bảo đầu tư xây dựng các dự án thủy điện có hiệu quả, bảo vệ môi trường tự nhiên và xã hội, phù hợp với tăng trưởng phụ tải điện hiện nay khoảng 10%/năm, Bộ Công Thương kiến nghị Thủ tướng chỉ đạo các tỉnh tạm dừng và chỉ xem xét cho phép đầu tư xây dựng từ sau năm 2015 đối với 102 dự án thủy điện nhỏ có tổng công suất 662,8MW.
Bộ Công Thương cũng kiến nghị rà soát, đánh giá 197 dự án thủy điện đã và đang nghiên cứu đầu tư nhưng chưa khởi công xây dựng, có tác động tiêu cực lớn đối với môi trường - xã hội, hiệu quả thấp, ảnh hưởng đến các quy hoạch khác...
Vậy là Bộ Công Thương đã cất tiếng còi cần thiết và đúng lúc nhằm xóa sổ một loạt mối lo thường trực của cả nhân dân và cơ quan quản lý về thủy điện thủy hại. Nên lắm thay!
PTT

Tất cả những dự báo về tương lai năng lượng thế giới đều sai!



Phuchoiacquy - Những dự đoán về nguồn năng lượng chúng ta sẽ sử dụng và sản xuất có một điểm chung duy nhất: Tất cả đều sai!
Theo như dự đoán từ những năm 1950, năng lượng hạt nhân sẽ trở nên rất rẻ, hay theo như dự đoán từ những năm 1970, trái đất sẽ sử dụng nguồn năng lượng chính là năng lượng mặt trời vào cuối thế kỉ 20, tất cả những lời tiên đoán trên đều không trở thành sự thực và dường như nó đến từ những cơ sở thông tin vô cùng mơ hồ.
Hiện nay, xu hướng năng lượng chính của toàn cầu chính là khí gas tự nhiên.
Những tiến bộ về khoa học công nghệ, các khám phá mới, những cuộc khủng hoảng kinh tế không được báo trước, các lo ngại về môi trường - tất cả các yếu tố này có thể sẽ làm hỏng mọi suy đoán về nguồn năng lượng chúng ta sẽ sử dụng trong tương lai.
Cơ quan Năng lượng Quốc tế (IEA) cho biết, xu hướng tiêu thụ năng lượng toàn cầu hiện nay đang làm cho trái đất ấm lên khoảng 6 độ C trên mức độ tiền công nghiệp. Vào năm 2100, nếu chúng ta không làm gì để thay đổi điều này, những thay đổi khí hậu sẽ biến trái đất thành một hành tinh hoàn toàn khác. Đây sẽ là một cuộc khủng hoảng cho tất cả chúng ta.
Những lời cảnh báo về sự thay đổi thời tiết của IEA đang nhận được sự quan tâm nhiều nhất trong mọi chủ đề - một phần bởi vì nó xảy ra ngay trước khi Liên Hợp Quốc (UN) tổ chức hội nghị khí hậu thường niên ở cùng một tuyến đường ở phía bắc châu Phi trong thành phố Durban. Bên cạnh đó, bản báo cáo cũng có những con số gây bất ngờ về ngành năng lượng trong tương lai.
Những chuyển biến trong lĩnh vực dầu thô
Từ nhiều thập kỉ nay, Mỹ là nước nhập khẩu dầu thô đứng đầu thế giới, 11 triệu thùng dầu thô mỗi ngày trong năm 2010. Sự mất cân bằng này đã khiến Mỹ tốn rất nhiều tiền - trên 300 tỷ USD vào năm 2011, hơn nữa nó gây ảnh hưởng đến các chính sách đối ngoại của các nước và biến Mỹ trở thành thống lĩnh trong lĩnh vực dầu thô.
Cuộc chiến tại Iraq và Afghanistan không có mục đích dầu mỏ, nhưng không thể phủ nhận việc nguồn dầu mỏ dồi dào của Trung Đông cũng là một phần khiến cuộc chiến kéo dài liên miên.
Nhằm tăng mức độ sử dụng hiệu quả nguồn năng lượng và tận dụng các nguồn tài nguyên mới, việc nhập khẩu dầu thô của Mỹ giảm mạnh. IEA dự đoán Mỹ sẽ giảm lượng dầu thô nhập khẩu chỉ còn một nửa vào năm 2035, trong khi lượng dầu nhập khẩu của châu Âu vẫn sẽ tăng.
Đến năm 2015, IEA dự đoán rằng, Liên Minh châu Âu sẽ nhập khẩu lượng dầu thô nhiều hơn Mỹ và đến năm 2035, Trung Quốc có thể sẽ nhập khẩu một lượng dầu lớn gấp hai lần Mỹ. Điều này sẽ kích thích các vấn đề an ninh dầu mỏ.
Tương lai của ngành năng lượng là khí gas
Chúng ta thường ngộ nhận rằng, nguồn dự trữ dầu mỏ và khí gas luôn cố định, sự phát triển công nghệ là điều chỉ xảy ra ở những ngành công nghệ sạch.
Tuy nhiên, nó không chính xác trong trường hợp này. Khí gas và dầu thô đòi hỏi công nghệ cao và các phương pháp mới cho phép các ngành công nghiệp sở hữu những nguồn dự trữ mới. Đây cũng là thực trạng của khí gas và các viên đá phiến chứa gas, chính nhờ những nguồn tài nguyên này mà nguồn dự trữ khí gas tự nhiên của Mỹ được cải thiện đáng kể và ảnh hưởng trực tiếp đến thế giới. Vì thế, giá cả dầu thô sạch hiện giờ đã có thể cạnh tranh về mặt giá cả với than đá.
Do vậy, bây giờ chính là thời kì hoàng kim của khí gas.
Nhưng thời kì hoàng kim này có thể tan biến bởi những lo lắng về vấn đề ô nhiễm từ các khe hở khai thác khí gas. Các nhà nghiên cứu môi trường lo lắng rằng, các lỗ hổng và việc khoan sẽ làm sôi các nguồn nước ngầm ở xung quanh và các hộ dân trong khu khai thác khí gas cũng vô cùng khó chịu với sự công nghiệp hóa cùng với đó là những ảnh hưởng do việc khoan khai thác gây ra.
Chúng ta thường ngộ nhận rằng, nguồn dự trữ dầu mỏ và khí gas luôn cố định,sự phát triển công nghệ là điều chỉ xảy ra ở những ngành công nghệ sạch. Ảnh: Ibtimes
Đa số các vấn đề môi trường này có thể kiểm soát được với những sự điều chỉnh thích hợp - đặc biệt là khi đem ra so sánh với than đốt, nhưng nếu không có những luật lệ tốt hơn trong lĩnh vực này, rất có thể cuộc chạy đua khí gas này sẽ trở nên lộn xộn.
IEA cho biết: Mỹ đã đem đến một nguồn cung năng lượng quốc tế mới đến từ những viên đá chứa khí gas. Nhưng nếu bạn thực sự tìm kiếm thời kì hoàng kim của khí gas, bạn sẽ cần tuân thủ những luật lệ.
Cần có chế độ sử dụng hợp lý
Nếu có một điểm chung không cần bàn cãi về năng lượng, đó chính là chúng ta phải sử dụng nó một cách hiệu quả hơn. Tiêu phí năng lượng chính là tiêu phí tiền của, nhất là khi giá dầu thô đang ở mức cao và không có bất cứ một dấu hiệu nào cho thấy nó sẽ giảm bớt.
Tại Mỹ, việc sử dụng hợp lí năng lượng chính là một chính sách môi trường thành công của Tổng thống Mỹ Obama khi đẩy mạnh các công trình xanh và viện trợ những khoản ủy thác về khí gas.
Thật kém may mắn khi phần lớn thế giới sử dụng năng lượng một cách không hiệu quả. Những con số IEA cung cấp cho thấy, xu hướng chung của toàn cầu trong những năm qua, chúng ta tốn nhiều carbon hơn khi sản xuất những sản phẩm công nghiệp. Điều này đồng nghĩa với việc chúng ta đang đi ngược lại hướng cần phải làm, tăng cường lượng carbon trong không khí thay vì giảm thiểu chúng, tất cả điều này là do các nguồn năng lượng không sạch như than đốt và các cách khai thác không hiệu quả liên tục gia tăng ở các quốc gia như Trung Quốc và Ấn Độ.
Điều này là dấu hiệu cho thấy sự chuyển tiếp của nguồn năng lượng sạch sẽ khó như thế nào.
Than đá rất rẻ và nhiều, nhưng nếu chúng ta không thể quay lưng lại với nó,số phận của chúng ta gần như đã được định đoạt. Ảnh: Tradequip
Than đá vẫn sẽ được sử dụng trong tương lai
Ngành công nghiệp Mỹ đã khuyên Tổng thống Obama điều chỉnh khuynh hướng và tổ chức một cuộc vận động “nói không với than đá”. Các nhà nghiên cứu môi trường đang tổ chức những chiến dịch vận động Mỹ ngừng sử dụng than đá. Các nguồn năng lượng mặt trời, gió và khí gas tự nhiên đều nhận được những ý kiến tích cực.
Tuy vậy, sự thật là than đá đã tạo ra gần như toàn bộ nguồn năng lượng chúng ta sử dụng trong quá khứ và nó vẫn tạo ra một lượng lớn nguồn năng lượng chúng ta đang sử dụng - và theo các suy đoán logic hay các thay đổi không đáng kể, than đá vẫn sẽ đóng vai trò quan trọng trong việc tạo ra nguồn năng lượng trong tương lai.
IEA cho biết: Chúng ta rất ít khi nói về than đá, nhưng trong vòng 10 năm qua, 50% sự tăng trưởng tiêu thụ năng lượng toàn cầu đều được đáp ứng nhờ than đá.
Chính sự thật đó đã lí giải vì sao trái đất vẫn nóng lên. Các thành phố đã phát triển trên thế giới đã hạn chế được nguồn năng lượng than đá, nhưng những quốc gia như Trung Quốc vẫn đang sử dụng rất nhiều than đá như bạn có thể thấy một bầu trời tràn ngập khói của Bắc Kinh.
Than đá rất rẻ và nhiều, nhưng nếu chúng ta không thể quay lưng lại với nó, số phận của chúng ta gần như đã được định đoạt.
2 tỷ người không được sử dụng các nguồn năng lượng hiện đại
Cho tất cả những ai lo lắng về đỉnh tăng trưởng của dầu thô, hay sự thay đổi khí hậu, hãy biết có gần 2 tỷ người trên hành tinh không được tiếp cận với các nguồn năng lượng hiện đại. Họ gần như sống trong bóng tối, trong khi chúng ta tạo nên tương lai sạch hơn, xanh hơn cho ngành năng lượng công nghiệp, chúng ta không thể hoàn toàn lãng quên họ. Sự thiếu hiểu biết về các nguồn năng lượng một cách tự nhiên khiến 2 tỷ người ấy sống vô cùng nghèo đói.
Để có thể mang lại sự giúp đỡ tới các hộ gia đình chìm trong nghèo đói và lạc hậu này, UN đã đặt năm 2012 là năm quốc tế của các nguồn năng lượng, đảm bảo để giúp ích cho việc nâng cao khả năng nhận thức của toàn cầu trong sự phát triển của nghị trình.
Nhưng nếu muốn tìm ra cách để đem ánh sáng đến những nơi cận Sahara ở châu Phi, chúng ta cần sự hợp tác của những công ty lớn. Chúng ta cần những công ty năng lượng lớn xem xét lại vấn đề này một cách nghiêm túc.ư
NLVN

Kazakhstan - “Địa chỉ vàng” cho các nhà đầu tư năng lượng?



Phuchoiacquy - Hơn 20 năm đã qua, Nga - quốc gia kế thừa của Liên Xô, đã vực dậy và tiếp tục nắm giữ vị thế là một cường quốc quân sự và kinh tế hàng đầu trên thế giới, nhưng quá trình chuyển đổi sang thị trường tự do tại quốc gia này vẫn biến chuyển tương đối chậm chạp. Thành công nhất trong quá trình tái cơ cấu nền kinh tế, phải kể đến 2 quốc gia nằm ven biển Caspia là Azerbaijanvà Kazakhstan… Trong con mắt của giới đầu tư toàn cầu thì có lẽ,Azerbaijan thành công hơn Kazakhstan trong cuộc chiến quảng bá thị trường để thu hút vốn đầu tư nước ngoài. Nhưng sự thực là chínhKazakhstan mới là địa chỉ dành nhiều sự quan tâm hơn của các nhà đầu tư năng lượng.
Azerbaijan và Kazakhstan hậu Liên bang Xô Viết sụp đổ
Tháng 12/1991, Liên Bang Xô Viết tan rã, di sản dành lại cho các quốc gia mới thành lập từ Liên Bang, không gì ngoài các nền kinh tế bị suy thoái trầm trọng, lạm phát tăng cao và đời sống người dân bị xuống cấp thảm hại, kéo theo đó là dư luận phản đối gay gắt trong nước… Tình trạng trên được cho là kết quả của những quyết sách thiếu sáng suốt dưới cơ chế quản lý tập trung của chính quyền Mastxcơva - Xô Viết.
Nhằm khắc phục hậu quả và thoát khỏi tình trạng nền kinh tế đang đứng bên bờ vực sụp đổ, 15 quốc gia mới thành lập, bao gồm cả Nga, đều xác định được mục tiêu cấp thiết, là phải chuyển đổi cơ cấu nển kinh tế, xây dựng được một thị trường tự do. Qua đó, thu hút được Đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) để phát triển kinh tế trong nước.
Hơn 20 năm trôi qua, Nga - quốc gia kế thừa của Liên Xô, đã vực dậy và tiếp tục nắm giữ vị thế là một cường quốc quân sự và kinh tế hàng đầu trên thế giới, nhưng quá trình chuyển đổi sang thị trường tự do tại quốc gia này vẫn biến chuyển tương đối chậm chạp.
Thành công nhất trong quá trình tái cơ cấu nền kinh tế phải kể đến 2 quốc gia nằm ven biển Caspia là Azerbaijan và Kazakhstan.

Azerbaijan dù “đầy tiềm năng đầu tư dầu khí”, nhưng vẫn không thể so với Kazakhstan
Trong con mắt của giới đầu tư toàn cầu thì có lẽ, Azerbaijan thành công hơn Kazakhstan trong cuộc chiến quảng bá thị trường để thu hút vốn đầu tư nước ngoài. Nhưng sự thực là chính Kazakhstanmới là địa chỉ dành nhiều sự quan tâm hơn của các nhà đầu tư.
Những thông tin đáng chú ý về tình hình đầu tư tại Azerbaijan
Chưa vội đề cập đến Kazakhstan, với Azerbaijan, trong thời kỳ phát triển kinh tế thời kỳ hậu Liên bang Xô Viết sụp đổ, thì người có công nhiều nhất phải kể đến cựu tổng thống Azerbaijan, ông Heydar Aliyew. Ông đã đề ra những quyết sách cực kỳ “đúng đắn và khôn ngoan” nhằm thu hút vốn đầu tư nước ngoài để phát triển kinh tế.
Ông Heydar Aliyew nhận thấy rằng, Azerbaijan rất giàu có tài nguyên dầu khí, nhưng quy mô hạn chế của ngành công nhiệp khai khoáng nội địa đã khiến sản lượng dầu khí khai thác của Azerbaijan thậm chí còn không đủ để cung cấp cho nhu cầu sử dụng trong nước.
Theo ông, nguồn tài nguyên dầu khí giàu có sẽ là “động lực lớn” cho nền kinh tế Azerbaijan phát triển mạnh mẽ.
Nếu biết các tận dụng lợi thế riêng của mình, thì không những Azerbaijan có thể tự đáp ứng nhu cầu năng lượng của mình, mà chắc chắn còn khiến các nhà đầu tư nước ngoài phải “xếp hàng” rót vốn vào Azerbaijan.
Chiến lược sáng suốt của ông Heydar Aliyew, đã dẫn đến dấu mốc đáng nhớ vào tháng 9/1994, một thỏa thuận nổi tiếng của Azerbaijan với 11 công ty, tập đoàn dầu khí nước ngoài, mang tên “Thỏa thuận thế kỷ” trị giá US$ 7,4 tỉ, được chính thức ký kết.
Thỏa thuận trên đã đẩy mạnh tiến trình khai thác những mỏ dầu trên bờ và ngoài khơi của Azerbaijan, bao gồm cả các mỏ dầu Chirag và Guneshli.
Đáng quan tâm trong “Thỏa thuận thế kỷ” phải kế đến tổng chi phí xây dựng cơ sở hạ tầng của tập đoàn dầu khí Socar, Azerbaijan với các đối tác nước ngoài, số tiền đầu tư dự kiến là 3,6 tỉ Mỹ kim.
Khi kế hoạch hoàn thành, sản lượng dầu thô được khai thác tại các dàn khoan sẽ lên tới 1 triệu thùng dầu mỗi ngày. Ngoài ra, một hệ thống đường ống dẫn dầu dài 1,092 dặm từ vùng Baku, Azerbaijan đến Tbilisi, Gruzia và điểm cuối là Ceyhan, Thổ Nhĩ Kỳ sẽ giúp vận chuyển dầu thô từ các mỏ dầu ngoài khơi của Azerbaijan như: Azeri, Chirag, Guneshli đến nơi tiêu thụ là thành phố Địa Trung Hải, Ceyhan của Thổ Nhĩ Kỳ.
Dự án xây dựng hệ thống cơ sở hạ tầng khai thác dầu khí trên tại Azerbaijan trên là một “điểm sáng” đầu tư đáng nổi bật nhất trong ngành ngành năng lượng của quốc gia Đông Âu này.
Các tập đoàn, công ty đáng tham gia Dự án phải kể đến tập đoàn dầu khí của Anh quốc, Bristish Petroleum (BP) chiếm 30,1% cổ phần Dự án, SocarA, dẫn đầu và vượt qua cả số cổ phần thuộc sở hữu của tập đoàn dầu khí Socar, Azerbaijan, hiện đang nắm giữ 25% cổ phần.
Ngoài ra, còn phải kể đến những nhà đầu tư khác như tập đoàn Chevron (8,9%) của Hoa kỳ, công ty StatoiHydro, Nauy (8,71%), công ty AnonimOrtakligi, Thổ Nhĩ Kỳ (6,53%), Liên doanh hai công ty Eni/Agip của Ý and Total của Pháp (mỗi bên nắm giữ 5%), tập đoàn Japan's Itochu (3.4 %), Tập đoàn Inpex Corp, Nhật (2,5 %) và Tập đoàn Hess Corp, Mỹ (2,36%).
Với tỷ lệ cổ phần trên thì các tập đoàn, công ty của nước ngoài nắm giữ 25% lợi nhuận từ Dự án khai thác tại các mỏ dầu khí Azeri, Chirag, Guneshli của Azerbaijan.
Kế thừa chính sách của cha mình là cựu Tổng thống Heydar Aliyew, ông Ilham Aliyev, Tổng thống đương nhiệm của Azerbaijan, đã thành lập Quỹ Dầu mỏ quốc gia. Quỹ sẽ sử dụng doanh thu khổng lồ từ lượng dầu mỏ được khai thác trên khắp đất nước, để phát triển ngành năng lượng nước nhà và nền kinh tế của Azerbaijan.
Theo số liệu công bố bởi chính quyền Azerbaijan, dòng chảy FDI vào quốc gia này tăng với tốc độ “chóng mặt” lên tới 600% trong 2 năm, từ $227 triệu lên $1,3 tỉ.
Đây là một minh chứng cho thấy hiệu quả trong chính sách của chính quyền ông Jlham Aliyev.
Kỳ 2: Tình hình đầu tư nước ngoài vào ngành dầu khí Kazakhstan
NLVN

Úc và Mỹ đầu tư 83 triệu USD nghiên cứu năng lượng mặt trời



Phuchoiacquy - Chính phủ Úc vừa thông báo về chương trình nghiên cứu năng lượng Mặt trời hợp tác với Mỹ trị giá 83 triệu USD, hướng tới phát triển công nghệ để giảm chi phí cho nguồn năng lượng sạch dồi dào này.
Mục tiêu của chương trình là phát triển công nghệ mới nhằm giảm chi phí cho năng lượng Mặt trời
Dự án kéo dài 8 năm sẽ có sự tham gia của 6 trường đại học Úc, Tổ chức Nghiên cứu Công nghiệp Khoa học Liên bang Úc (CSIRO) và Bộ Năng lượng Mỹ.
Mục tiêu của chương trình là phát triển công nghệ mới nhằm giảm chi phí cho năng lượng Mặt trời.
Bộ trưởng Năng lượng Úc Martin Ferguson đánh giá đây là khoản đầu tư nghiên cứu năng lượng Mặt trời lớn nhất trong lịch sử Úc.
Theo ông Ferguson, khoản đầu tư sẽ được sử dụng để thành lập hai trung tâm nghiên cứu chiến lược. Thứ nhất là Viện Nghiên cứu Nguyên liệu Quang điện tiên tiến hợp tác Mỹ - Úc trị giá 35 triệu USD và thứ hai là Viện Nghiên cứu Nhiệt Úc với khoản đầu tư 35 triệu USD. Hai cơ sở này sẽ thúc đẩy việc phát triển công nghệ năng lượng Mặt trời nhanh chóng hơn so với việc nếu hai nước nghiên cứu riêng rẽ.
Giám đốc Viện Nghiên cứu Nguyên liệu Quang điện tiên tiến Hợp tác Mỹ - Úc, Martin Green, cho biết Úc đang dẫn đầu thế giới trong lĩnh vực phát triển nguyên liệu quang điện, chất lượng tốt hơn và chi phí thấp hơn. Nguyên liệu quang điện là công nghệ sử dụng trong hầu hết các loại pin Mặt trời.
“Úc là nước cung cấp công nghệ giúp hạ nhiều nhất giá thành năng lượng Mặt trời trong 4 năm qua. Chúng tôi sẽ nghiên cứu cách nâng hiệu quả nguyên liệu quang điện lên tới khoảng 40%” - Martin Green ông nói.
Dự án cũng sẽ nghiên cứu năng lượng nhiệt - Mặt trời, nghĩa là sử dụng gương tập trung tia mặt trời để đun nước cho các turbine điện.
Giám đốc Trung tâm Năng lượng Mặt trời Quốc gia thuộc CSIRO, ông Wes Stein, cho rằng nghiên cứu của Úc tạo ra phương pháp lưu trữ năng lượng nhiệt Mặt trời hiệu quả hơn và các công nghệ quy mô nhỏ hơn. Thành quả này sẽ đẩy chi phí hạ thấp hơn.
“Có thể hi vọng năng lượng nhiệt – Mặt trời sẽ là dạng năng lượng sạch giá thành rẻ nhất thế giới trong khoảng 10 năm tới” - ông Stein nhận định.
Tuy nhiên, ông Matthew Wright, giám Đốc điều hành tổ chức Beyond Zero Emissions, cho rằng dự án cần hướng tới các ứng dụng thực tế để cạnh tranh với các nước dẫn đầu về năng lượng sạch khác, trong đó có Trung Quốc.
“Mặc dù chúng ta có nhiều nhà khoa học bận rộn trong phòng thí nghiệm, Trung Quốc cũng có những nhà nghiên cứu trong phòng thí nghiệm được hậu thuận bởi các công ty thương mại. Đó là cách để thúc đẩy một ngành công nghiệp và tạo ra một khu vực năng lượng có thể tái tạo” - ông Wright nói.
Đại sứ Mỹ tại Úc, Jeffrey Bleich hoan nghênh chương trình hợp tác nghiên cứu giữa hai nước Mỹ - Úc. Ông nói: “Hai nước nhìn nhận thế giới cũng như những thách thức trong khu vực này giống nhau”.
The Australian

Chủ Nhật, 9 tháng 12, 2012

Sa mạc Sahara - giải pháp thỏa “cơn khát khí đốt” của EU? (Kỳ 2)




Phuchoiacquy - Chính quyền Algeria đã cho thấy họ là những lãnh đạo có tầm nhìn xa, khi thông qua kế hoạch thu hút các nhà đầu tư nước ngoài, quốc gia Bắc Phi này muốn vượt lên hẳn những quốc gia láng giềng của mình, những nước cũng có tiềm năng dầu khí rất dồi dào như: Lybia, Niger, Mauritania …

Cấu tạo địa chất đặc thù đang là thách thức với các doanh nghiệp nước ngoài
trong khâu thăm dò khí đá phiến sét tại
Lợi thế và rủi ro của “những kẻ khai hoang”
Ngoài ra, Algeria cũng tích cực liên hệ với các quốc gia phát triển, nhằm mua lại công nghệ khoan thủy lực tiên tiến để các công ty dầu khí nội địa Algeria có thể khai thác triệt để nguồn lợi nước nhà.
Việc chính quyền Algeria tỏ ra sốt sắng với công nghệ khoan thủy lực có thể coi là một “ưu đãi ngầm” dành cho các doanh nghiệp của EU. Công nghệ khoan thủy lực bị người dân các quốc gia EU phản đối dữ dội do những lo ngại về hậu quả có thể gây nên cho môi trường, khiến các công ty dầu khí khó lòng triển khai công nghệ tiên tiến này tại các dự án khai thác trên lãnh thổ EU.
Dù gần đây, Hội đồng châu Âu đã bác bỏ đề xuất liên quan đến việc cấm sử dụng công nghệ khoan thủy lực của một số quốc gia thành viên, nhưng điều này cũng không cản được một số quốc gia thành viên gây khó khăn cho các doanh nghiệp sử dụng công nghệ khoan thủy lực thông qua việc điều chỉnh nội luật của quốc gia đó.
Còn với Algeria thì mọi chuyện lại hoàn toàn khác, việc các doanh nghiệp EU sử dụng công nghệ khoan thủy lực cho các dự án nằm ngoài lãnh thổ EU thì lại không hề gặp phải bất cứ một trở ngại nào. Chính quyền Algeria đã “bật đèn xanh” cho công nghệ khoan thủy lực và EU cũng không quan tâm đến các vấn đề môi trường của Algeria, điều duy nhất mà khối này quan tâm là việc những mỏ khí đá phiến sét màu mỡ tại các sa mạc của Algeria, sẽ sớm giúp nền độc lập năng lượng EU thoát khỏi cái bóng của Nga.
Dự đoán Algeria có thể tăng gấp đôi sản lượng dầu khí khai thác trong 2 thập niên tới, quốc gia này sẽ xuất khẩu khoảng 110 tỷ mét khối (m³) vào năm 2030.
Gần đây, phía các doanh nghiệp đang đầu tư vào Algeria tỏ ra khá tự tin, dự thảo luật hạ thuế đang được đệ trình lên quốc hội Algeria khi được thông qua sẽ giảm bớt gánh nặng rất nhiều cho các công ty, tập đoàn dầu khí. Đây thực sự là phần thưởng cho những khó khăn và rủi ro mà các doanh nghiệp phải đối mặt trong khâu thăm dò.
Thêm vào đó, những doanh nghiệp “khai hoang” sẽ được chính quyền Algeria quan tâm và hưởng rất nhiều ưu đãi khác trong tương lai, bởi đơn giản họ đã có công với Algeria, khi là những người đầu tiên rót vốn vào quốc gia Bắc Phi này.
Nhưng có lẽ, các doanh nghiệp không nên tự tin quá sớm, vì Algeria mới chỉ cho phép thăm dò dầu khí ở một vài vị trí nhất định, trong khi để thực sự tìm được những vị trí khai thác đạt yêu cầu, thì ước tính các doanh nghiệp vẫn cần phải thăm dò thêm khoảng 400 khu vực nữa.
Các mỏ khí đá phiến sét tại sa mạc Sahara và các địa điểm khác của Algeria dù có trữ lượng lớn, nhưng lại nằm sâu dưới bề mặt trái đất và rải rác trên diện rộng, điều này đòi hỏi các doanh nghiệp đầu tư khai thác phải tốn rất nhiều công sức, khi muốn xác định được một vị trí thực sự đáng giá để hạ các mũi khoan khai thác.
Câu hỏi liệu khoản tiền mà các doanh nghiệp EU và Mỹ đầu tư vào Algeria có thực sự sinh lời đúng như mong đợi hay không, có lẽ vẫn đang chờ câu trả lời trong tương lai.
Nếu phải đưa ra lời nhận xét cuối cùng, thì việc các doanh nghiệp EU đầu tư vào ngành khí đá phiến sét Algeriavẫn là khá sáng suốt. So với LibyaAlgeria vẫn có tình hình an ninh, chính trị tương đối ổn định. Và quan trọng là, với các doanh nghiệp, thì trước khi đầu tư, điều đầu tiên họ quan tâm không phải là tiềm năng dầu khí, thứ họ quan tâm là làm sao để không bị vướng chân vào tình hình mâu thuẫn, căng thẳng tại quốc gia sở tại.
Nếu Algeria chứng minh được tiềm năng dầu khí của mình là đúng với những con số báo cáo của Cơ quan Năng lượng quốc tế, và chính quyền Algeria vẫn tiếp tục duy trì tình hình ổn định chính trị nước nhà, thì chắc chắn rằng, Algeria vẫn là một “địa chỉ vàng” cho những nhà đầu tư năng lượng toàn cầu.
NLVN

Thứ Năm, 29 tháng 11, 2012

Thiết bị phục hồi, tăng tuổi thọ ắc qui - Battery Booster


Phuchoiacquy - Battery Booster đã chính thức nhận bằng sáng chế tại Hàn Quốc và được mang nhãn hiệu BENMAR tại Việt Nam.
Battery Booster được thiết kế với kích cỡ 10x7.8x2.3 nặng 145g, sản phẩm được thiết kế với vỏ được làm bằng nhựa PC và nhựa thông ABS an toàn trong môi trường có nhiệt độ cao.  Bên ngoài Battery Booster  là mặt chính với màn hình bằng chất liệu chịu nhiệt có độ bền chịu va đập.


Sản phẩm được thiết kế khá đơn giản, nhỏ gọn cùng bộ dây nối đồng không có độ axit đi kèm, đây là loại dây chuyên dùng cho audio nhằm ngăn tiếng ồn hoặc nhiễu để phát điện dễ dàng hoạt động (Nếu sử dụng loại dây thông thường thì hiệu quả sẽ giảm đáng kể).
Tính năng chủ yếu Battery Booster nhằm phục hồi ắc quy đã yếu, duy trì ổn định ắc quy mới; tăng công suất, tăng tính năng khởi động. Tăng chất lượng âm thanh, duy trì điện ổn định từ đó tăng khả năng chiếu sáng đèn pha. Sản phẩm có thể phán đoán máy phát điện có bất thường hay không để  tăng cường tính xạc, phóng điện, duy trì điện áp ổn định và ngăn dòng điện ngược.


Battery Booster được ứng dụng: Khi công suất ôtô yếu, bị rung mạnh và khó lên dốc; Khi ắc quy yếu; khi ô tô khó khởi động; khi chất lượng âm thanh không tốt ; khi đèn tối , ứng dụng cho tất cả các loại xe sử dụng ắc quy 12V. Tính năng nổi bật và sự khác biệt của thiết bị này là chỉ hoạt động với dòng điện từ 13V trở lên (khi động cơ và máy phát hoạt động), khi động cơ tắt thiết bị này cũng tắt theo, dùng dòng xung điện hợp lý để loại bỏ sunfat bám vào tấm điện cực sản sinh ra nước (làm tỷ trọng giảm, gây yếu phóng nạp của ắc quy). Battery Booster còn chuyển hóa sunfat thành chất điện giải làm tỷ trọng tăng và duy trì tỷ trọng nhất định (Tăng khả năng phóng, nạp của ắc quy).

Hiện nay, tất cả các Battery Booster nhập khẩu trực tiếp vào Việt Nam đều phải thông qua nhà phân phối. Ngoài ra, nhằm bảo vệ quyền lợi chính đáng của người tiêu dùng trước vấn nạn hàng giả sẽ  tràn lan trên thị trường, tất cả các sản phẩm Battery Booster chính hãng nhập khẩu trực tiếp vào Việt Nam đều có dán tem chống hang giả và gắn nhãn hiệu BENMAR chìm. Tất cả các sản phẩm không dán tem hoặc có dán các loại tem không rõ nguồn gốc khác sẽ không đảm bảo là hàng thật.

(Autonet)

Thứ Tư, 21 tháng 11, 2012

Pin ắc quy Miền Nam không hoàn thành đủ 50% kế hoạch năm


Phuchoiacquy - CTCK Pin Ắc quy Miền Nam (PAC) chỉ đạt 55,06 tỷ đồng sau khi kết thúc quý 3, hoàn thành 47,88% kế hoạch năm 2012.

CTCK Pin Ắc quy Miền Nam (PAC) vừa thông báo kết quả kinh doanh hợp nhất quý 3. Theo đó, doanh thu thuần quý 3 đạt 470,28 tỷ đồng, tăng nhẹ gần 3%. Lợi nhuận sau thuế đạt 14,23 tỷ đồng, giảm 10% so với cùng kỳ.
Lũy kế 9 tháng, công ty đạt doanh thu thuần là 1.290,8 tỷ đồng, giảm 13,98%. Lợi nhuận sau thuế đạt 41,3 tỷ đồng, giảm 44,5% so với 9 tháng năm 2011.
So với con số 115 tỷ đồng lợi nhuận trước thế được Đại hội đồng cổ đông đề ra, PAC chỉ đạt 55,06 tỷ đồng sau khi kết thúc quý 3, hoàn thành 47,88% kế hoạch năm 2012.
NDHMoney

Chủ Nhật, 18 tháng 11, 2012

Hệ thống năng lượng và vấn đề an ninh năng lượng của Việt Nam (Kỳ 1)


Phuchoiacquy - Hệ thống năng lượng (HTNL) Việt Nam bao gồm các phân ngành năng lượng là điện, than, dầu khí, năng lượng tái tạo, năng lượng hạt nhân… trong đó ba phân ngành có ảnh hưởng lớn đối với nền kinh tế quốc dân là điện, than, dầu khí. Bài viết sau đây sẽ trình bày một số kết quả nghiên cứu bước đầu về nhận diện những mối đe dọa ANNL và đề xuất một số vấn đề cần nghiên cứu giải quyết, nhằm đưa ra các giải pháp tăng cường ANNL của Việt Nam giai đoạn 2015- 2030.

Nguyễn Bình Khánh, Ngô Tuấn KiệtViện Khoa học năng lượng - Viện Khoa học và Công nghệ Việt Nam
Từ khi Việt Nam bắt đầu công cuộc đổi mới năm 1986 đến nay, HTNL đã có những bước phát triển không ngừng, góp phần tích cực vào công cuộc đổi mới và phát triển kinh tế đất nước.
Ngoài các đặc điểm chung như: các hệ thống năng lượng khác, những yếu tố đặc thù về địa lý, lãnh thổ và sự phân bố tài nguyên năng lượng cũng như trung tâm tiêu thụ năng lượng của HTNL Việt Nam có tác động lớn đến việc giải bài toán tối ưu phát triển HTNL và ANNL Việt Nam.
I. Hệ thống năng lượng Việt Nam
1. 1 Cân đối nguồn năng lượng sơ cấp
Việt Nam có tiềm năng khá đa dạng về nguồn năng lượng sơ cấp, với đầy đủ các nguồn than, dầu khí, thủy điện, năng lượng tái tạo (năng lượng gió, mặt trời, địa nhiệt, biomass…), năng lượng hạt nhân, năng lượng biển… Nhiều nguồn năng lượng sơ cấp đã được đầu tư khai thác phục vụ nhu cầu năng lượng ngày càng gia tăng ở nước ta.
Tổng tiêu thụ năng lượng sơ cấp của Việt Nam giai đoạn 2000 - 2009, tăng trung bình 6,54%/năm và đạt 57 triệu TOE vào năm 2009 (trong đó, tiêu thụ than tăng trung bình 12,12%/năm, xăng dầu tăng 8,74%/năm, khí tăng 22,53%/năm, điện tăng 14,33%/năm, đạt 74,23 tỷ kWh năm 2009). Dự báo nhu cầu năng lượng cuối cùng của Việt Nam năm 2015 đạt 72,77 triệu TOE, các năm 2020, 2025 và 2030 tương ứng là 80,9; 103,1 và 131,16 triệu TOE.
Bảng 1: Cân bằng nhu cầu nguồn năng lượng sơ cấp giai đoạn 2015-2030
1.2 Hiện trạng và quy hoạch phát triển nguồn than
Nguồn than chủ yếu của Việt Nam là than Antraxit thuộc bể than Đông Bắc, nằm trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh, một phần thuộc tỉnh Bắc Giang và Hải Dương. Than Antraxit của Bể than Đông Bắc có chất lượng tốt (nhiệt trị 4.600-8.200 kcal/kg). Ngoài ra, vùng ven biển đồng bằng Bắc Bộ đã phát hiện bể than nâu được dự báo có trữ lượng khoảng 210 tỷ tấn. Kết quả thăm dò và khảo sát tới cuối năm 2010 của ngành than cho thấy, tổng trữ lượng than của Việt Nam ước khoảng 48,7.109 tấn (bao gồm than bể than Đông Bắc, khối nâng Khoái Châu của bể than đồng bằng Sông Hồng và các mỏ khác).
Bảng 2: Tài nguyên và trữ lượng nguồn than
(Nguồn: Quy hoạch phát ngành than Việt Nam đến 2020, xét đến 2030)
Theo quy hoạch phát ngành than Việt Nam đến 2020, xét đến 2030 thì đến năm 2015 nhu cầu than toàn bộ nện kinh tế là 63,330.106 tấn/năm (trong đó nhu cầu than cho điện là 31,8.106 tấn/năm) và sau năm 2015 lượng than nhập khẩu sẽ tăng nhanh.
Bảng 3: Dự kiến nhu cầu, khối lượng xuất, nhập khẩu than
(Nguồn: Quy hoạch phát ngành than Việt Nam đến 2020, xét đến 2030)
Ngành than đã đặt vấn đề khai thác nguồn than nâu của khu vực đồng bằng sông Hồng từ năm 2020. Tuy nhiên, việc khai thác bể than đồng bằng Sông Hồng vẫn còn nhiều vấn đề cần được làm rõ trước khi triển khai như: công nghệ và hiệu quả khai thác, tác động tiêu cực đến môi trường và giải pháp giảm thiểu...
1.3 Hiện trạng và quy hoạch phát triển nguồn khí
Theo Chiến lược phát triển ngành dầu khí Việt Nam đến năm 2015, định hướng đến 2025, tổng trữ lượng dầu khí của Việt nam được đánh giá đạt khoảng (3,8 ÷4,2).109 tấn dầu quy đổi, trong đó khoảng (1,4÷1,5).109 dầu khí ngưng tụ và (2,4:2,7).1012 m3 khí thiên nhiên. Tiềm năng dầu khí chưa phát hiện còn lại tập chung chủ yếu ở vùng sâu, xa bờ như: bể Phú Khánh, vùng Tư Chính - Vũng Mây và các vùng chồng lần khác.
Tổng nguồn khai thác năm 2010 lên 14,6.109m3 năm 2015 và (14÷15,6).109 m3 năm 2020. Trong đó, khoảng (63÷68)% lượng khí nằm ở thềm lục địa phía Đông, chủ yếu ở các vùng Nam Côn Sơn và một phần đáng kể khí đồng hành ở bể Cửu Long.
Cho đến nay, tổng lượng khí có thể khai thác ở thềm lục địa Việt Nam dựa vào sử dụng là 150.109 khí. Trong tương lai, dự kiến có thể phát hiện thêm khoảng (100÷160).109 m3 khí nữa, nâng trữ lượng khí khu vực thềm lục địa lên (200÷250).109 m3 khí.
Hiện nay, mới chỉ có 2 vùng trữ lượng khí có thể khai thác từ 2000-2015 đó là bể Cửu Long với (30÷40).109 m3 khí và bể Nam Côn Sơn: (95÷100).109 m3 khí, hàng năm có thể cấp khoảng (15÷16).109 m3 khí cho phát điện. Lượng khí phục vụ cho các ngành khác chiếm dưới 20% tổng nhu cầu sản phẩm khí.
Dự kiến trong thời gian tới năm 2020, trữ lượng và khả năng khai thác khí tự nhiên của Việt Nam có thể đáp ứng được các nhu cầu sử dụng trong nước, nếu phải nhập khẩu thì lượng nhập khẩu không lớn và có thể nhập từ một số nước trong khu vực Đông Nam Á khi có đường ống khí đốt liên kết trong khối ASEAN.
1.4 Hiện trạng và quy hoạch phát triển nguồn dầu
Theo “chiến lược phát triển ngành dầu khí Việt Nam đến năm 2015 và định hướng đến năm 2025” và một số tài liệu khác đã xác định các mỏ phát hiện dầu khí được tìm thấy ở Việt Nam được tập trung ở 3 bể trầm tích lớn là: Cửu Long, Nam Côn Sơn, Malay - Thổ Chu, Phú Khánh. Trong đó, dầu thô được tìm thấy chủ yếu ở bể Cửu Long.
Theo kết quả đánh giá cuối năm 2010, tổng tiềm năng thu hồi dầu dự kiến khoảng 440 triệu TOE. Về khả năng khai thác dầu, năm 2004 sản lượng khai thác trong nước được 20,35.106 tấn và năm 2009 duy trì ở mức trên 16,0.106 tấn. Nếu không tìm ra được các nguồn dầu mới và không tính các nguồn dầu khai thác ở nước ngoài, thì sản lượng dầu mỏ khai thác được của Việt Nam được dự báo sẽ liên tục suy giảm và chỉ có khoảng 3.106 tấn/năm vào năm 2025.
Thời gian qua, dầu thô khai thác của Việt Nam chỉ phục vụ cho xuất khẩu do Việt Nam chưa có các nhà máy lọc dầu. Từ cuối năm 2009, Nhà máy lọc dầu Dung Quất - nhà máy lọc dầu đầu tiên của Việt Nam đã đi vào vận hành với công suất 6.5.106 tấn/năm, có thể đáp ứng 30% các sản phẩm xăng dầu trong nước.
Hiện nay Việt Nam cũng đang có kế hoạch đầu tư 2 dự án nhà máy lọc dầu mới là Nghi Sơn (công suất 10 triệu thùng/năm) và Long Sơn (công suất 10 triệu thùng/năm và có thể mở rộng lên công suất 20 triệu thùng/năm vào năm 2025).
Như vậy, nếu các nhà máy đúng tiến độ thì tới 2020, Việt Nam có thể không phải phụ thuộc vào các sản phẩm xăng, dầu nhập khẩu.
Tính đến năm 2010, Việt Nam không nhập khẩu dầu thô, tuy nhiên năm 2015 do nhu cầu dầu thô cho các nhà máy lọc dầu dự kiến xây dựng thì Việt Nam sẽ phải nhập khẩu dầu thô. Dự kiến nguồn nguyên liệu cho các nhà máy lọc dầu của Việt Nam trong giai đoạn 2012-2025 là từ các nước: KuweitVenezuela và Liên bang Nga.
1.5 Hiện trạng và quy hoạch phát triển nguồn điện
Hệ thống điện của Việt Nam chủ yếu gồm các nguồn thủy điện, nhiệu điện than, nhiệt điện khí, nhiệt điện dầu. Ngoài ra, Việt Nam đang và sẽ tiếp tục nhập khẩu điện từ Trung Quốc, Lào và Campuchia. Gần đây một phần nhỏ nguồn điện từ các nguồn năng lượng tại tạo như năng lượng gió; mặt trời; sinh khối… bắt đầu được đưa vào HTĐ.
Năm 2010 điện năng sản xuất và nhập khẩu toàn hệ thống quốc gia đạt 100,1 tỷ kWh, tăng 15,1% so với năm 2009, công suất cực đại (Pmax) toàn hệ thống năm là 15.500 MW. Tổng công suất đặt nguồn điện tính đến cuối năm 2010 là 21.250 MW, trong đó thủy điện chiếm tỷ trọng 38%, nhiệt điện 11%, TKB chạy khí & diesel 38%, nhiệt điện chạy khí 3%, nhiệt điện chạy dầu 4%, diesel và nguồn điện trong năm 2010 dao động trong khoảng (15.000-17.600)MW.
Nguồn thủy điện của Việt Nam phân bố ở khắp trên cả nước, tuy nhiên các nhà máy thủy điện công suất lớn chủ yếu được xây dựng ở các vùng: Tây Bắc, Tây Nguyên, Trung Trung Bộ và Đông Nam Bộ. Dự kiến tới năm 2025, Việt Nam cơ bản khai thác hết nguồn thủy điện với tổng công suất lắp máy khoảng 21.000MW.
Các nhà máy nhiệt điện than có được xây dựng tập trung ở khu vực quanh bể than Quảng Ninh, vùng Đông Bắc và khu vực đồng bằng Sông Hồng. Các nhà máy điện dầu và khí hiện tập trung ở khu vực phía Nam, như trung tâm nhiệt điện Phú Mỹ, Cà Mau, Nhơn Trạch…
Theo Quy hoạch phát triển điện lực Quốc gia giai đoạn 2011-2020 có xét đến năm 2030 đã được phê duyệt tại Quyết định số 1208/QĐ-TTG ngày 21/7/2011 của Thủ tướng Chính phủ, định hướng phát triển nguồn điện đến năm 2030 như sau:
Đến 2020, điện năng sản xuất và nhập khẩu khoảng 330 tỷ kWh. Tổng công suất nhà máy điện khoảng 75.000 MW, trong đó thủy điện chiếm 23,1%, thủy điện tích năng 2,1%, nhiệt điện than 48%, nhiệt điện chạy khí 16,5% (trong đó sử dụng LNG 2,6%), nguồn điện sản xuất từ năng lượng tái tạo 5,6%; điện hạt nhân 1,3% và nhập khẩu điện 3,1%.
Đến năm 2030, điện năng sản xuất và nhập khẩu khoảng 695 tỷ kWh. Tổng công suất các nhà máy điện khoảng 146.800 MW, trong đó thủy điện chiếm 11,8%, thủy điện tích năng 3,9%, nhiệt điện than 51,6%, nhiệt điện khí 11,8% (trong đó sử dụng LNG 4,1%); nguồn điện sản xuất từ năng lượng tái tạo 9,4%; điện hạt nhân 6,6% và nhập điện 4,9%
Về lưới truyền tải, hệ thống điện của Việt Nam hiện đang vận hành ở các cấp điện áp cao 500kV-110kV và các cấp điện áp trung áp từ 35kV đến 6kV, cấp điện áp hạ áp 0,4kV. Lưới truyền tải 500kV là xương sống của hệ thống điện Việt Nam, chạy suốt từ Bắc vào Nam, tổng công chiều dài trên 3.000km với 17 trạm biến áp 500kV, đóng vai trò quan trọng trong cân bằng điện năng toàn quốc, có ảnh hưởng tới độ tin cậy cung cấp điện của từng miền. Lưới điện truyền tải 220 kV làm nhiệm vụ truyền tải điện từ các nhà máy điện đến các trạm khu vực và từ các trạm khi vực đi cấp điện cho từng trung tâm phụ tải.
1.6 Hiện trạng và quy hoạch phát triển nguồn năng lượng tái tạo
Theo điều tra, đánh giá, tiềm năng năng lượng tái tạo của Việt Nam là khá đa dạng, trong đó năng lượng thủy điện nhỏ và cực nhỏ khoảng 10.109 kWh/năm, năng lượng và địa nhiệt có thể khai thác với công suất khoảng (262÷340) MW, năng lượng mặt trời có thể khai thác cho mục đích điện khí hóa ngoài lưới khoảng (10÷20) MW, tài nguyên gió ở độ cao 65m của một số khu vực có tiềm năng gió tốt có thể khai thác đạt trên 10.000 MW, tiềm năng sử dụng năng lượng sinh khối (trấu, bã mía, phế thải gỗ) có thể đạt (300-500)MW.
Thực tế khai thác nguồn năng lượng tái tạo hiện nay còn khiêm tốn (mới chỉ đáp ứng dưới 3% nhu cầu tiêu thụ) so với tiềm năng do hạn chế với công nghệ, giá năng lượng tái tạo chưa cạnh tranh được với nguồn năng lượng truyền thống khác. Hiện Nhà nước đang xây dựng các chính sách nhằm hỗ trợ và phát triển nguồn năng lượng tái tạo nhằm nâng cao tỷ trọng sử dụng năng lượng tái tạo tới năm 2025 là 4% trong cơ cấu tiêu thụ năng lượng.
Ngành năng lượng hạt nhân mới bước vào giai đoạn chuẩn bị xây dựng 2 nhà máy hạt nhân tại tỉnh Ninh Thuận, với công suất lắp máy 4.000 MW và theo quy hoạch phát triển điện hạt nhân được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt tháng 6/2010 thì trong giai đoạn 2020-2030 sẽ xây dựng thêm 13 nhà máy điện hạt nhân, với tổng công suất từ (15.000÷16.000)MW.
NLVN
Kỳ 2: Một số vấn đề an ninh năng lượng của Việt Nam