Hiển thị các bài đăng có nhãn An ninh năng lượng. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn An ninh năng lượng. Hiển thị tất cả bài đăng

Thứ Ba, 28 tháng 5, 2013

Khả năng cạnh tranh của năng lượng gió (Kỳ 2)


PDF.InEmail
Phuchoiacquy - Phong điện còn rất nhiều tiềm năng, nhưng để cho loại năng lượng tái tạo này có thể đi vào cuộc sống cần có những chế tài hữu hiệu. Trước mắt cần thực hiện cam kết trong cơ chế phát triển sạch là Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN) cam kết mua điện ở giá 6,8cent /kWh, thêm 1cent /kWh từ quỹ phát triển sạch. Việc phát triển phong điện bên cạnh ý nghĩa kinh tế nó còn có ý nghĩa đặc biệt quan trọng về môi trường. Một nguồn năng lượng sạch sẽ giúp chúng ta cải thiện môi trường sống và quan trọng hơn ít phụ thuộc vào nguồn nước mà cứ mỗi mùa khô đến thêm nỗi lo mất điện.
Các yếu tố ảnh hưởng đến khả năng cạnh tranh của điện gió
Yếu tố chính sách
Chính phủ và nhân dân bày tỏ sự ủng hộ phát triển điện gió, đặc biệt năng lượng gió sẽ đáp ứng nhu cầu điện đang tăng nhanh. Khung thể chế cho phát triển Năng lượng tái tạo đang được xây dựng. Mục tiêu của phát triển điện gió ở Việt Nam là 5%, trong tổng sản lượng điện vào năm 2020 và 11% vào năm 2050.
Một nội dung chính của cơ chế khuyến khích được phê duyệt để thúc đẩy phát triển điện gió là giá điện quy định (FIT). FIT bằng 7,8 US cent/kWh. Trong đó, EVN (Tập đoàn Điện lực Việt Nam) có nghĩa vụ mua điện từ các dự án điện gió ở mức giá 6,8USc/kWh. Bù giá từ ngân sách nhà nước cho chủ đầu tư dự án điện gió là 0,1UScent/ kWh (từ Quỹ bảo vệ Môi trường Việt Nam). Ngoài ra, cơ chế hỗ trợ này cũng bao gồm giảm và miễn thuế thu nhập doanh nghiệp, thuế nhập khẩu, phí sử dụng đất, VAT và phí môi trường.
Giá carbon
Giá car bon cao là một trong những động lực chính thúc đẩy sử phát triển của điện gió. Ngược lại giá carbon thấp là một trong những yếu tố chính kéo lùi những nỗ lực phát triển điện gió nói riêng cũng như phát triển năng lượng mới tái tạo nói chung. Với giá carbon là 30 USD cho một tấn CO2 quy đổi như hiện nay điện gió có khả năng cạnh tranh với các dạng năng lượng hóa thạch khác...xem Bảng ... tính cạnh tranh này giảm mạnh khi giá carbon giảm xuống dưới mức 20 USD cho tấn CO2 quy đổi.
Mục tiêu phát triển bền vững
Thúc đẩy các khả năng kinh tế
Các dự án nhỏ và phân tán sẽ đóng vai trò quan trọng trong chương trình điện khí hoá nông thôn.
Khai phóng tiềm năng phong điện sẽ mang lại nguồn lợi lớn cho địa phương và cả nước. Thông qua việc phát triển phong điện, kết cấu hạ tầng khu vực cũng sẽ được đầu tư xây dựng đồng bộ và hiện đại với tốc độ rất nhanh.
Bảo tồn các hệ sinh thái
Phong điện sử dụng năng lượng của sức gió để phát điện, mà không làm cạn kiệt các nguồn tài nguyên thiên nhiên, cũng không làm biến đổi các đặc tính của không khí sử dụng.
Linh hoạt
Trong cung cấp điện năng, phong điện là nguồn cung ứng linh hoạt, bởi khả năng điều chỉnh công suất.
Tương đối sạch
So với nhiệt điện, phong điện cung cấp một nguồn năng lượng sạch, hầu như không phát khí thải gây hiệu ứng nhà kính.
Góp phần vào phát triển bền vững.
Về khía cạnh bền vững, thuỷ năng có tiềm năng rất lớn về bảo tồn hệ sinh thái, cải thiện khả năng kinh tế và tăng cường sự công bằng xã hội.
Giảm phát thải
Bằng cách sử dụng nguồn năng lượng gió thay vì các loại nhiên liệu hoá thạch (đặc biệt là than), phong điện giảm bớt ô nhiễm môi trường, giảm bớt các trận mưa axít, giảm axit hoá đất và các hệ thống thủy sinh.
Trình độ phát triển công nghệ điện gió
Trong khí các công nghệ sản xuất điện từ nhiên liệu hóa thạch về cơ bản đã đến điểm bão hòa về khả năng phát triển, cải thiện công nghệ, thì công nghiệp sản xuất điện gió được xem như là công nghệ mới tái tạo, đang thực hiện những bước đi ban đầu, còn khá nhiều tiềm năng cải thiện. Bài viết này sẽ đưa ra các giả định cải thiện công nghệ trong tương lai.
Ví dụ minh họa về khả năng cạnh tranh của năng lượng gió
Thông số ban đầu
Các thông số này là thông số của nhà máy điện gió quy mô công nghiệp đầu tiên của Việt Nam. Nhà máy Phong điện 1, xã Bình Thạnh và Phú Lạc, huyện Tuy Phong, tỉnh Bình Thuận. Với công suất đặt 30 MW, tổng mức đầu tư 70 triệu USD. Sản lượng điện hàng năm là 85 triệu kWh. Giá bán điện là 6 cent/kWh. Giá bán carbon là 30 USD/ tấn CO2. Lượng carbon hàng năm có thể bán là 85.000 tấn. Các thông số giả định thêm. Chi phí O&M hàng năm dự tính là 1% so với tổng vốn đầu tư. Tuổi thọ dự án giả định là 25 năm.
Tính toán phương án cơ sở
Sau khi tính toán chúng ta có NPV (10%, 25 năm) là -30,06 triệu USD (chưa tính lợi ích do bán Carbon. Chưa có hiệu quả.
Giá thành sản xuất khoảng 9,896 cent/kWh. Chưa có khả năng cạnh tranh với các loại năng lượng hóa thạch khác.
NPV (10%, 25 năm) là -6,91 triệu USD (tính thêm lợi ích do bán Carbon.
Lợi ích này hàng năm là khoảng 2,55 triệu USD và tính cho 25 năm là 23,15 triệu USD. Vẫn chưa có hiệu quả.
Tuy chưa có hiệu quả nhưng có thể thấy việc bán được CO2 giúp cải thiện đáng kể tính hiệu quả của dự án.
Các yếu tố ảnh hưởng đến hiệu quả và khả năng cạnh tranh của dự án phong điện
Ảnh hưởng của yếu tố giá bán điện:
Bảng 2.1. Ảnh hưởng của giá bán điện
Có thể thấy yếu tố giá bán điện có ảnh hưởng lớn đến hiệu quả dự án. Hệ số đàn hồi là 1,54. Ảnh hưởng đồng biến. Khi giá bán điện tăng đến 7,8 cent/kWh (như cam kết của cơ chế thúc đẩy sự phát triển điện gió ), điện gió hoàn toàn có khả năng cạnh tranh với các dạng năng lượng khác nếu tính đến lợi ích từ việc bán CO2 (23,15 triệu USD).
Ảnh hưởng của yếu tố giá bán CO2:
Bảng 2.2. Ảnh hưởng của giá bán CO2
Có thể thấy, nếu giá bán CO2 giảm, khả năng cạnh tranh của phong điện sẽ bị suy giảm đáng kể. Hệ số đàn hồi là 3,35. Ảnh hưởng đồng biến. Với mức giá từ 25 USD/tấn CO2, điện gió hoàn toàn có khả năng cạnh tranh. Tuy nhiên, gần đây trên thị trường thế giới, đang có những diễn biến bất lợi cho sự phát triển của điện gió... Giá CO2 giảm mạnh.
Ảnh hưởng của khả năng phát triển công nghệ chế tạo
Với sự phát triển của khoa học công nghệ, trong tương lai không xa, công nghiệp phong điện sẽ có những bước tiến đáng kể. Hy vọng rằng với sự trợ giúp của khoa học công nghệ, tổng mức đầu tư của điện gió sẽ giảm đáng kể.
Bảng 2.3 Ảnh hưởng của tổng mức đầu tư
Từ bảng 2.3 có thể thấy, nếu tổng mức đầu tư có thể giảm khoảng từ 10% trở lên thì giá điện gió hoàn toàn có khả năng cạnh tranh với các dạng năng lượng khác. Hệ số đàn hồi là 2,3. Ảnh hưởng nghịch biến. Vốn đầu tư giảm hiệu quả tăng.
Phân tích ảnh hưởng tổng hợp của các yếu tố
Sử dụng phần mềm Crystal ball chúng ta có các kết quả tính toán như sau:
Chỉ có 15,42% khả năng dự án phong điện này có tính khả thi.
Các yếu tố ảnh hưởng lớn đến hiệu quả tương ứng là giá bán carbon, giá bán điện và cuối cùng là tổng mức đầu tư. Trong đó, tổng mức đầu tư có ảnh hưởng nghịch biến.
Các yếu tố ảnh hưởng lớn đến giá thành sản xuất điện năng tương ứng là sản lượng điện, giá bán carbon, giá bán điện, tổng mức đầu tư và cuối cùng là chi phí OM. Trong đó, tổng mức đầu tư chi phí OM có ảnh hưởng đồng biến…
Chỉ có 27,14 % khả năng dự án này có giá thành dưới mức 7,8 cent/kWh (so với giá cam kết đã có tính đến lợi ích do bán Carbon..).
Lời kết
Phong điện còn rất nhiều tiềm năng nhưng để cho loại năng lượng tái tạo này có thể đi vào cuộc sống cần có những chế tài hữu hiệu. Trước mắt cần thực hiện cam kết trong cơ chế phát triển sạch là EVN cam kết mua điện ở giá 6,8cent /kWh, thêm 1cent /kWh từ quỹ phát triển sạch. Việc phát triển phong điện bên cạnh ý nghĩa kinh tế nó còn có ý nghĩa đặc biệt quan trọng về môi trường. Một nguồn năng lượng sạch sẽ giúp chúng ta cải thiện môi trường sống và quan trọng hơn ít phụ thuộc vào nguồn nước mà cứ mỗi mùa khô đến thêm nỗi lo mất điện.
NangluongVietnam

Việt Nam thành ‘cường quốc’ lọc dầu?


PDF.InEmail
Phuchoiacquy - Tập đoàn Dầu khí Thái Lan (PTT) sẽ đầu tư dự án lọc hóa dầu ở Khu kinh tế Nhơn Hội (Bình Định) có vốn đầu tư lên tới 28,7 tỷ USD, công suất 30 triệu tấn/năm. Cùng với các dự án trước đó, Việt Nam hoàn toàn đang hướng đến một nước mạnh về lọc hóa dầu và xuất khẩu sản phẩm xăng dầu?
Vốn ở đâu?
Ảnh minh họa
Trước đó, Tập đoàn Khang Thông (Việt Nam) cùng Tập đoàn STFE và Công ty PTTES (Thái Lan) đã ký kết hợp đồng về dự án nhà máy lọc dầu Bình Định đặt tại Khu kinh tế Nhơn Hội.
Theo dự kiến khi đó, nhà máy lọc dầu sẽ có công suất khoảng 12 triệu tấn/năm, trong đó giai đoạn 1 có công suất thiết kế là 6 triệu tấn/năm. Tuy nhiên, nay bỗng dưng xuất hiện Tập đoàn PTT với "siêu" dự án 30 tỷ USD khiến không ít người ngỡ ngàng.
Một số nguồn tin cho biết, PTT hiện có một dự án lọc dầu ở Thái Lan và tập đoàn này cũng đã được Chính phủ Thái Lan chấp thuận triển khai một dự án lọc hóa dầu lớn ở miền Nam Thái Lan. Nhưng do những bất ổn về chính trị thời gian qua, PTT đã quyết định tìm kiếm địa điểm đầu tư khác và Việt Nam đã được lựa chọn.
PTT cũng đã từng được giới thiệu để tham gia dự án lọc hóa dầu Long Sơn nhưng tập đoàn này lại chọn Bình Định.
Với thực tế này, câu hỏi đầu tiên được đặt ra là làm thế nào để PTT thu xếp được số vốn lớn như vậy? Theo PTT, số vốn của dự án lên đến gần 30 tỷ USD. Các đối tác Việt Nam vốn chắc không có nhiều, như vậy PTT sẽ phải tìm kiếm được những đối tác có tiềm lực tài chính mạnh hoặc cần đến một định chế tài chính lớn đứng ra cam kết cho vay.
Các ý kiến cho rằng PTT không phải là tập đoàn dầu khí hàng đầu thế giới, vì vậy việc tìm kiếm các đối tác, thu xếp tài chính không phải là chuyện dễ dàng.
Dự án lọc dầu Nghi Sơn (Thanh Hóa), thành lập tháng 4/2008, với các đối tác tên tuổi hàng đầu thế giới Idemitsu (Nhật Bản), Công ty Dầu mỏ quốc tế Cô Oét (là công ty con của Công ty Dầu lửa Quốc gia Cô Oét), Công ty hóa dầu Mitsui (Nhật Bản), nhưng tới nay tư vẫn chưa thể khởi công vì việc thu xếp tài chính lên đên 7 tỷ USD không hề dễ dàng.
Theo một số chuyên gia, các nhà đầu tư quốc tế hiện rất hờ hững với dự án lọc hóa dầu do lợi nhuận thấp, trong khi chi phí đầu tư quá cao dẫn đến rủi ro lớn. Theo tính toán, dự án lọc dầu phải có mức sinh lợi IRR (chỉ số hoàn vốn nội tại) từ 13%-17% mới đem lại hiệu quả, trong khi khả năng sinh lợi của bản thân dự án chỉ khoảng 6%-8%.
Một số tính toán cụ thể cho thấy, hiện nay giá dầu thô đang tăng cao, lợi nhuận từ lọc dầu chưa tới 20 USD/tấn dầu thô, vì vậy đầu tư vào lọc dầu được cho là không hấp dẫn.
Đa phần nhà đầu tư đều yêu cầu Chính phủ nước sở tại phải có các ưu đãi nhất định nhằm đảm bảo đạt được hiệu quả tối thiểu cho dự án. Ngay như dự án lọc hóa dầu Nghi Sơn sau khi được Chính phủ đồng ý gói ưu đãi về thuế, đất đai cơ sở hạ tầng ngoài hàng rào nhà máy, khấu hao, ngoại hối, quyền phân phối của nhà đầu tư nước ngoài... thì mọi chuyện mới suôn sẻ.
Tuy nhiên, không phải dự án nào cũng sẽ tìm kiếm được gói ưu đãi của Chính phủ. Hiện chỉ có những dự án lọc dầu thuộc Tập đoàn Dầu khí Quốc gia Việt Nam như Dung Quất, Nghi Sơn, Long Sơn nằm trong nhóm dự án quan trọng quốc gia, là được ưu đãi.
Thậm chí, dự án hoạt động rồi vẫn cần được tiếp tục ưu đãi trong thời gian dài nữa. Nhà máy lọc dầu Dung Quất hiện cũng đang được hưởng "giá trị ưu đãi" là 3% đối với sản phẩm hóa dầu, 5% đối với LPG và 7% đối với xăng dầu kéo dài trong 10 năm.
Ngoài ra, còn phải đảm bảo nguồn dầu thô cho cả đời dự án, nguồn dầu thô cung cấp cho nhà máy lọc dầu sẽ lấy ở đâu? Đảm bảo nguồn dầu thô là nhân tố quyết định đến vận hành ổn định của dự án.
Dư thừa công suất?
Việt Nam mới có Nhà máy lọc dầu Dung Quất hoạt động với công suất 6,5 triệu tấn/năm đáp ứng khoảng 1/3 nhu cầu xăng dầu cả nước. Thời gian tới nhà máy này sẽ nâng công suất lên 10 triệu tấn/ năm.
Tiếp theo là dự án lọc hóa dầu Nghi Sơn chuẩn bị khởi công với công suất 10 triệu tấn/năm sẽ đi vào hoạt động sau 5 năm xây dựng, cộng với dự án của Tập đoàn Xăng dầu Việt Nam "thai nghén" đã lâu tại Vân Phong (Khánh Hòa) với công suất 10 triệu tấn/ năm. Tiếp theo là Long Sơn ( Bà Rịa Vũng Tàu) công suất 10 triệu tấn/ năm.
Nếu thêm dự án 30 triệu tấn/năm tại Bình Định thì nâng sản lượng xăng dầu của Việt Nam lên 70 triệu tấn/ năm khiến cho lọc dầu Việt Nam dư thừa so với nhu cầu tiêu dùng trong nước. Việt Nam lúc đó đứng vào hàng ngũ “cường quốc” lọc dầu và xuất khẩu sản phẩm xăng dầu
Chiến lược dầu khí VN, dự báo nhu cầu các sản phẩm lọc dầu trong nước, giai đoạn 2011-2015 dao động trong khoảng từ 15 đến 20 triệu tấn/năm, tổng nhu cầu dự báo đến năm 2025 chỉ là 27 triệu tấn/năm.
Tổng công suất như trên đã cao gấp hơn 2 lần nhu cầu. Nếu không hướng tới xuất khẩu thì khó có hiệu quả.
Tuy nhiên, theo ông Trần Ngọc Toản, nguyên Viện trưởng Viện dầu khí Việt Nam, Cơ quan thông tin Năng lượng Mỹ (EIA) cho biết, nhu cầu dầu thô trung bình của thế giới năm 2005 là 5 thùng/người/ năm. Năm 2005, nhu cầu dầu của Trung Quốc là 1,5 thùng/ người /năm và Thái Lan là 4,6 thùng/ người/ năm.
Giả thiết đến năm 2015 kinh tế Việt Nam phát triển bằng với Trung Quốc năm 2005 và dân số 100 triệu người thì nhu cầu của ta lúc đó sẽ là 21 triệu tấn/năm, còn nếu bằng với Thái Lan (2005) thì nhu cầu sẽ là 65 triệu tấn/năm. Dự báo trong chiến lược 27 triệu tấn/năm cho năm 2025, tức là bằng khoảng hơn một nửa mức tiêu thụ của Thái Lan năm 2005, là quá thấp.
Hơn nữa, với trữ lượng dầu được công bố đến thời điểm hiện nay, Việt Nam có thể xếp vào nhóm nước nghèo về tài nguyên dầu mỏ, thậm chí đến sau năm 2020 còn có thể xếp vào loại rất nghèo về tài nguyên dầu mỏ. Nhóm nước nghèo này thường chọn chiến lược phát triển hạ nguồn, dùng nguồn lợi từ lọc hóa dầu và dịch vụ phân phối các sản phẩm lọc hóa dầu để giải quyết vấn đề an ninh năng lượng.
Phát triển lọc hóa dầu để đáp ứng nhu cầu trong nước và hướng tới mục tiêu biến nước ta thành "trung tâm cung ứng và dịch vụ xăng dầu cho thị trường khu vực (Nam Trung Quốc, Lào, Campuchia, Đài Loan, Hàn Quốc...) là điều cần hướng tới bởi Việt Nam rất có lợi thế về vị trí địa lý. Thái Lan, một nước rất ít tài nguyên dầu mỏ đã xây dựng chiến lược dầu khí của mình theo hướng này. Bởi vậy công suất bao nhiêu không thành vấn đề.
Tuy nhiên, lực cản lớn vẫn là huy động vốn. “Việt Nam nằm trong khu vực châu Á-Thái Bình Dương hiện có nhiều nhà máy lọc dầu và đang dư thừa công suất. Nếu các dự án không tính toán cẩn thận về hiệu quả, thì rủi ro sẽ khó tránh khỏi, nhất là với các dự án sinh sau đẻ muộn, sẽ rất khó cạnh tranh với những nhà máy đang hoạt động”, ông Toản nói.
Nguồn tin: (VEF)

Thứ Tư, 15 tháng 5, 2013

EU điều tra các tập đoàn dầu mỏ nghi thao túng giá



PDF.
InEmail
Phuchoiacquy - Ít nhất ba hãng dầu BP (Anh), Shell (Hà Lan) và Statoil (Na Uy) đang bị Ủy ban châu Âu (EC) điều tra hành vi ấn định giá bán, gây ảnh hưởng trên phạm vi toàn cầu, AP đưa tin ngày 15/5.
EC cho biết họ đang lo ngại các công ty dầu “có thể thông đồng để báo cáo giá không đúng sự thật; những mức giá đó được dùng để xác định chi phí thị trường của nhiều sản phẩm dầu mỏ tại châu Âu và toàn cầu”.
EC thông báo: “Chỉ cần giá bị bóp méo một chút là có thể gây ảnh hưởng lớn đến giá dầu thô, dầu tinh chế, doanh số nhiên liệu sinh học, có thể tổn hại người tiêu dùng cuối cùng”. Quan chức chống độc quyền của Liên minh châu Âu (EU) có thể kiểm tra không báo trước văn phòng của các hãng dầu, nhưng những điều tra như vậy không có nghĩa là những công ty này thực sự có hành động sai trái.
Trong khi đó, EC cho biết sẽ gửi cảnh báo chính thức tới Trung Quốc rằng hai nhà sản xuất thiết bị viễn thông Huawei (Hoa Vĩ) và ZTE sẽ bị áp thuế thương mại vì họ được trợ cấp trái phép, Reuters đưa tin ngày 15/5.
Do Huawei và ZTE đang nắm giư gần 1/4 thị trường châu Âu, nên nhiều quan chức EU cho rằng, điều này rất nguy hiểm về kinh tế và an ninh vì nhiều ngành công nghiệp của các nước EU đang phụ thuộc vào công nghệ không dây giá rẻ từ Trung Quốc.
Tienphong

Chủ Nhật, 5 tháng 5, 2013

Giải pháp cho vấn đề trạm biến áp



PDF.InEmail
Phuchoiacquy - Trong thế giới công nghệ cao hiện nay, chắc chắn mọi sự đều thay đổi và ngành điện buộc phải thay đổi theo, nếu không muốn trở nên lỗi thời và bị bỏ lại phía sau. Các kỹ sư luôn chịu áp lực, phải tiết kiệm tiền, cải tiến các thiết kế và xây dựng các hệ thống hiệu quả hơn. Một mặt phải nỗ lực hết mình, nhưng điều quan trọng là ngành điện phải biết tận dụng mọi lợi thế mà công nghệ đem lại, thậm chí cả những công nghệ tân kỳ nhất.
Công nghệ tân tiến
Nhiều công nghệ tân tiến có thể bị coi là ý tưởng ngông cuồng, kỳ quặc hay thậm chí là trên mây. Công nghệ tân tiến có nhiều hình thức. Một số vốn là công nghệ cũ nhưng đi theo hướng mới, số khác là các công nghệ đỉnh cao và một số ít tuy còn nằm trên bàn vẽ nhưng có thể sẵn sàng đảo lộn mọi sự bất cứ lúc nào.

Bằng cách kết hợp máy cắt điện, dao cách ly,
và máy biến dòng trong một thiết bị duy nhất,
Siemens thu hẹp được mặt bằng cần thiết
Hãy xem xét một số tiến bộ về công nghệ năng lượng tái tạo nêu trong các bản tin gần đây. Trên thị trường có bán các tấm lợp mái nhà có các đặc tính quang điện (photovoltaic - PV), khiến chúng trở thành các tấm pin mặt trời cỡ nhỏ. Các hãng phát triển sản phẩm đang thử nghiệm trên thực địa loại quần áo có các đặc tính quang điện, để cấp điện cho các thiết bị mà nhiều người mang theo cả ngày. Nghiên cứu về lớp phun lớp PV đang được tiến hành, khiến bất kỳ bề mặt nào nếu quay đúng hướng cũng đều trở thành nguồn điện.
Chính quá trình trên đang phát huy tác dụng đối với sự phát triển công nghệ ngành điện, trong đó trạm biến áp là tâm điểm của sự phát triển này từ nhiều năm nay. Trước đây, nhưng chưa tới mức quá lâu, thiết kế chống sét oxit kim loại còn được xem là kỳ quặc, cực đoan và khó tin. Quan điểm cho rằng có thể giảm mức cách điện bằng việc sử dụng một thiết bị bên trong chứa các vật trông tựa như khoanh giò vào hồi đó là không thể tin nổi và đáng lo ngại, nhưng giờ đây chẳng còn ai nghi ngờ về tính thực tiễn của loại thiết bị này. Thay đổi để tiến lên là động lực để công nghệ phát triển , giúp trạm biến áp vận hành tốt hơn.
Vấn đề kích thước
Vật liệu cách điện tốt hơn cho phép đề xuất các mẫu thiết kế trạm biến áp nhỏ gọn, được thế giới chấp nhận ngày một nhiều hơn, khi mà các công ty điện lực đang đối mặt với thách thức phải cung cấp công suất trạm biến áp ở khu vực đô thị trong điều kiện mặt bằng bố trí hạn hẹp. Bằng cách kết hợp công nghệ tiên tiến với vật liệu có đặc tính tốt hơn, các nhà chế tạo hiện đang chào bán các thiết bị nhỏ gọn. Thiết kế trạm biến áp cách điện bằng không khí (air-insulated substation - AIS) nhờ đó được cải thiện, nhỏ gọn hơn bao giờ hết.
Các thiết kế AIS cải tiến này sử dụng một số công nghệ như: Máy biến dòng đo lường quang học (optical instrument transformer), dao cách ly thanh cái kiểu khung trượt (pantograph), giảm khoảng cách giữa các pha nhờ sử dụng chống sét oxit kim loại kiểu cải tiến giảm mức cách điện. Các thiết kế AIS cũng sử dụng các kiểu máy cắt điện SF6 cách tân. Máy cắt điện cách ly (kiêm chức năng của dao cách ly) của ABB và máy cắt điện Simobreaker của Siemens sử dụng công nghệ hỗn hợp bằng cách kết hợp các năng lực của dao cách ly và của máy cắt điện. Máy cắt Simover của Siemens - còn có tên gọi khác là máy cắt điện xoay - có máy biến dòng, dao cách ly kiểu xoay và máy cắt điện, tất cả được tích hợp làm một.

Kết hợp công nghệ cách điện bằng khí (GIS) với công nghệ cách điện bằng không khí (AIS) cho phép thu hẹp rất nhiều mặt bằng cần thiết cho trạm biến áp
Cũng có một số thiết kế trạm biến áp kiểu hỗn hợp (hybrid), kết hợp công nghệ GIS (trạm biến áp cách điện bằng khí) với công nghệ AIS, nhờ đó thu hẹp hơn nữa mặt bằng chiếm chỗ của trạm biến áp. Các thiết kế này là sự kết hợp của các loại thiết bị đặt trong không khí ngoài trời và các thiết bị đóng cắt cách điện bằng khí SF6 đặt trong vỏ bọc. Trạm hỗn hợp này là phương án thay thế kinh tế hơn so với trạm GIS thuần túy, áp dụng cho những mặt bằng có phần nhỏ hẹp so với yêu cầu của trạm cách điện bằng không khí (AIS) nhưng đủ rộng đối với trạm biến áp kết hợp. Người thiết kế trạm biến áp ngày nay có nhiều lựa chọn và nhiều công cụ hơn nhiều so với trước đây.
Trạm biến áp siêu dẫn
Một sức mạnh khác có tiềm năng thay đổi cấu hình trạm biến áp là công nghệ siêu dẫn nhiệt độ cao (high-temperature superconducting - HTS). HTS đã được sử dụng từ nhiều năm nay, nhưng mới chỉ giới hạn ở các dự án thí điểm, để thử nghiệm các ứng dụng trên lưới điện. Các ứng dụng này bao gồm: Tích trữ năng lượng trường từ siêu dẫn (superconducting magnetic energy storage - SMES), cáp HTS và thiết bị hạn chế dòng sự cố HTS, hiện đã được lắp đặt trên hệ thống điện của nhiều công ty điện lực.
Một trong số các dự án thí điểm gần đây nhất của Bộ Năng lượng Mỹ được áp dụng trên lưới điện của công ty điện lực Southern California Edison– (SCE). SCE sẽ lắp đặt một máy biến áp trung áp HTS tại trạm biến áp Irvine, bang California (Mỹ). Máy biến áp HTS có thông số danh định 69/12,47 kV, 28 MVA và sẽ tích hợp khả năng giới hạn dòng sự cố. Đây là dự án hợp tác giữa Bộ Năng lượng Mỹ và ngành công nghiệp. Bộ Năng lượng đang tài trợ cho dự án. Phía ngành công nghiệp bao gồm Waukesha Electrical Systems, Phòng thí nghiệm quốc gia Oak Ridge và SuperPower Inc.
Các ý tưởng thiết kế HTS đã được thử nghiệm và chứng minh là đáng tin cậy, nhưng một trong số các vướng mắc trong việc triển khai là vấn đề giá thành. Cho đến nay, mỗi công trình lắp đặt luôn phải có hệ thống hỗ trợ kỹ thuật nhiệt độ siêu thấp (cryogenic), nhưng điều gì sẽ xảy ra nếu hợp nhất nhiều hệ thống làm lạnh ở nhiệt độ siêu thấp? Có nhiều đề xuất xây dựng một trạm biến áp siêu dẫn sử dụng đủ các loại thiết bị HTS khác nhau nhưng với một hệ thống duy nhất làm lạnh ở nhiệt độ siêu thấp phục vụ toàn bộ trạm biến áp.
Các nhà nghiên cứu cho rằng trạm biến áp siêu dẫn sẽ hiệu quả hơn vì nó hầu như không có tổn hao. Trạm biến áp HTS sẽ tin cậy hơn, ít yêu cầu bảo trì với kiểu thiết kế đặt trong vỏ bọc. Trạm cũng yêu cầu mặt bằng ít hơn - giảm tới 70 % - và độ an toàn cũng cao hơn. Điều này chắc chắn phù hợp với định nghĩa của ý tưởng sáng tạo được xây dựng với công nghệ tân tiến, nhưng sẽ còn phải mất thời gian thuyết phục những người hoài nghi.
Trạm biến áp với giao thức Internet
Không chỉ có các công trình ngoài trời rơi vào tầm ngắm công nghệ. Cách đây vài năm, công ty điện lực Seattle City Light (SCL - bang Washington) xây dựng lại hệ thống điều khiển trạm biến áp theo phương pháp tiếp cận mới. SCL thay thế hệ thống giám sát điều khiển và thu thập dữ liệu (Supervisory Control and Data Acquisition - SCADA) kiểu tập trung dựa trên các thiết bị đầu cuối từ xa (remote terminal unit - RTU) bằng hệ thống truyền thông dựa trên giao thức Internet (Internet protocol - IP). Hệ thống mới này thu thập được nhiều thông tin hơn và linh hoạt hơn các hệ thống SCADA truyền thống.

Các kết cấu compozite đang tạo ra sự khác biệt trong thiết kế trạm biến áp
Hệ thống của SCL này sử dụng một máy chủ trạm biến áp bao gồm một máy tính trạm biến áp SEL 3354 của công ty Schweitzer Engineering Laboratories (bang Washington) chạy trên phần mềm ứng dụng Substation và Substation Explorer của công ty SUBNET Solutions (Canađa). Hệ thống này cũng sử dụng các khóa chuyển đổi (switch) của công ty GarrettCom (bang California) được kết nối với các thiết bị điện tử thông minh (intelligent electronic devices - IED) bằng cách giao tiếp với các thiết bị trạm biến áp.
Công nghệ điều khiển trạm biến áp dựa trên IP tích hợp sẽ đứng vững và tăng trưởng về số lượng ứng dụng. Gần đây, Cisco (bang California, Mỹ) và Alstom (Pháp) công bố thành lập nhóm cộng tác với nhiệm vụ tích hợp mạng IP này với các thiết bị trạm biến áp và các hệ thống điều khiển. Nhóm của họ kết hợp các bộ định tuyến (router) và khóa chuyển đổi (switch) chịu được các quá điện áp lưới điện của công ty Cisco với các thiết bị điện của công ty Alstom như dao cách ly, rơle bảo vệ, tụ điện và hệ thống điều khiển số đảm bảo sự hoạt động của tất cả các thiết bị này. Alstom hiện đang tích hợp nền tương thích với IPv6 của Cisco vào các thiết bị trạm biến áp của họ nhằm tạo điều kiện dễ dàng cho việc chuyển đổi từ các giao thức truyền thông SCADA nối tiếp sang truyền thông lưới điện thông minh đích thực bằng IP.
Với việc chuyển đổi này, điều gì sẽ xảy ra khi đường truyền Internet trên mặt đất bị mất? Tất nhiên là dịch vụ này không còn tồn tại, mọi việc có thể bị gián đoạn, nhưng một công nghệ khác của thế kỷ 21 lại đang vào cuộc. Kết nối Internet qua vệ tinh nhân tạo độc lập với các đường truyền trên mặt đất. Vệ tinh nhân tạo cho phép các công ty điện lực bao quát toàn bộ hệ thống của họ trong một mạng duy nhất, đây là một lợi thế rất lớn khi tiến hành rà soát, sửa đổi và nâng cấp.
Tiến thêm một bước nữa, vệ tinh nhân tạo có thể sử dụng cho nhiều dịch vụ khác như camera an ninh, dịch vụ điện thoại sử dụng tiếng nói qua IP và truyền fax. Tất cả đều có thể thực hiện cùng lúc, hiệu quả hơn.

Hàng rào điện ngăn không cho động vật lại gần các thiết bị mang điện
Thiết bị bán dẫn
Các linh kiện điện tử công suất đã được sử dụng rộng rãi trong ngành điện từ nhiều năm nay. Các hệ thống điện cao áp một chiều (high voltage direct current - HVDC) và các hệ thống truyền tải điện xoay chiều linh hoạt (flexible ac transmission systems - FACTS) không còn mới lạ nữa. Nhiều nghiên cứu đang được tiến hành nhằm áp dụng công nghệ bán dẫn công suất cho máy cắt điện và máy biến áp bán dẫn.
Nhiều người cho rằng tính năng của các linh kiện bán dẫn hiện nay còn quá thấp, chưa đủ để chế tạo máy cắt điện và máy biến áp bán dẫn, thế nhưng điều này đang xảy ra. Việc phát triển máy cắt điện một chiều loại bán dẫn đang có nhiều tiến triển. ABB đang nghiên cứu thiết kế loại máy cắt tác động kép (hybrid) sử dụng linh kiện bán dẫn cùng với dao cách ly cơ khí, dùng cho lưới điện HVDC đang được đề xuất ở châu Âu.
Máy biến áp bán dẫn cũng đang được nghiên cứu khắp nơi trên thế giới. Máy biến áp bán dẫn không phải là máy biến áp kiểu khô có lõi từ; nó là bộ biến đổi điện áp không có sắt, thép hay đồng như vẫn thấy trong các thiết bị truyền thống loại này. Theo ý kiến của nhiều người tham gia nghiên cứu máy biến áp bán dẫn thì đây là thiết bị định tuyến (router) kỹ thuật số dùng cho lưới điện. Nghe có vẻ khá xa vời, nhưng ý tưởng lại hợp lý.
Ở Nhật Bản, tổ chức phi lợi nhuận Digital Grid Consortium đã được thành lập để phát triển máy biến áp bán dẫn này. Nhóm này bao gồm ORIX Corp, NEC Corp. và National Instruments. Có tin đồn một số nhà sản xuất thiết bị điện Nhật Bản có kế hoạch sẽ tham gia nhóm này.
Theo báo cáo của nhóm, thiết bị này sẽ thay thế các thiết kế sử dụng các cuộn dây hiện nay bằng các bộ biến đổi bán dẫn điện xoay chiều-sang-điện một chiều-sang-điện xoay chiều (AC-to-DC-to-AC). Máy này hoàn toàn chế tạo được với công nghệ hiện nay, nhưng do giới hạn về chi phí nên mới chỉ dừng ở giai đoạn nghiên cứu, chưa sang giai đoạn dự án thí điểm, trong khi chờ đợi các đột phá về công nghệ bán dẫn cải thiện được tính kinh tế của thiết bị.
Các đề xuất mới
Ai cũng biết chim, rắn, sóc không biết đọc. Nên cho dù có trương lên bao nhiêu biển báo “Điện áp cao nguy hiểm” thì những loài vật này vẫn cứ tiếp tục làm chạm chập thanh cái và các thiết bị mang điện, gây ra sự cố mất điện. Một số ứng dụng công nghệ cao giờ đã có sẵn trên thị trường giúp giải quyết vấn đề này.
Cột và cấu trúc bằng vật liệu compozite đang tìm đường tiến vào trạm biến áp. Đành rằng chậm chạp, nhưng sự thực là có. Công ty Shakespeare Composite Structures (bang South Carolina, Mỹ) phát triển các trụ đỡ thanh cái và đỡ dao cách ly trong trạm biến áp. Theo công ty Shakespeare Composite Structures, các động vật gây phiền toái này có thể nhảy lên các trụ đỡ bằng sợi thủy tinh, nhưng khả năng gây ngắn mạch chạm đất và sự cố thấp hơn nhiều. Công nghệ sợi thủy tinh và compozite đã xuất hiện cách đây 50 năm nhưng vẫn được coi là tân tiến, có điều là thời gian để các công nghệ này tiến vào được trạm biến áp lại quá dài.
Công ty TransGard (bang Pennsylvania, Mỹ) đưa ra giải pháp sáng tạo cho vấn đề này. TransGard đã phát triển một phương pháp rất thú vị để ngăn chặn các động vật bò, trườn, len lỏi vào trạm bằng cách vây quanh bằng hàng rào mang điện làm từ các tấm bảng chuyên dụng. Các tấm bảng được lắp đặt xung quanh các thiết bị mà công ty điện lực muốn bảo vệ. Công ty Rochester Gas & Electric lắp đặt hệ thống này ở tất cả các trạm biến áp của họ, kết quả là trong nhiều năm nay, chỉ xảy ra một sự cố mất điện do động vật gây ra (xem trên T&D World, chuyên mục Electric Utility Operations, số tháng 8 năm 2012).
Đối với loài chim, vấn đề có phức tạp hơn một chút nhưng đã có nhiều sản phẩm bán trên thị trường. Cụ thể như công ty Bird-B-Gone (bang California, Mỹ) chào bán các hệ thống phun sương hóa chất đuổi chim và giàn chông nhựa ngăn chim đậu. Nhưng có một sản phẩm công nghệ tuyệt vời: Đó là hệ thống sử dụng công nghệ âm thanh, phát ra tiếng chim kêu báo hiệu nguy cấp và tiếng chim săn mồi của trên 22 loài khác nhau vào những thời điểm và trong các khoảng thời gian được lựa chọn ngẫu nhiên. Với sự đa dạng này, chim không cảm thấy nghe đi nghe lại cùng một thứ. Ngược lại, âm thanh khiến chúng lo ngại và tìm đến nơi chúng cảm thấy an toàn hơn.
Kết nối trạm biến áp
Các thiết bị điện tử thông minh (IED), các bộ vi xử lý đủ loại và các thiết bị công nghệ cao khác đã được chế tạo để hoạt động với các công nghệ quang học, không dây và Ethernet trong trạm biến áp ngày nay. Các thiết bị này có khả năng dồn các dữ liệu từ rất nhiều cảm biến vào các liên kết truyền thông kỹ thuật số và sử dụng các dữ liệu này ở cấp trạm biến áp.

Thiết bị FACTS cỡ nhỏ (tụ bù) lắp đặt trong trạm biến áp giúp cải thiện chất lượng điện năng
Nhiều công ty điện lực cảm thấy khó khăn trong việc kết nối các thiết bị trong và ngoài trạm biến áp chỉ vì các phương pháp kết nối. Trước đây, chủ yếu sử dụng công nghệ nối cứng (hardwiring), nhưng cáp sợi quang đang làm thay đổi các quan niệm truyền thống. Cáp sợi quang cũng là phương pháp hiệu quả hơn về chi phí để kết nối các thiết bị điện tử thông minh, cảm biến và thiết bị giám sát, so với cáp đồng điều khiển.
Nối cứng mạch điều khiển tốn rất nhiều sức lao động, đòi hỏi kỹ thuật viên phải đấu nối từng sợi dây điều khiển một với hệ thống. Phải mất nhiều trăm giờ để lập sơ đồ kết nối, lắp đặt cáp, đi dây các thiết bị, thử nghiệm các mạch điện và ghi nhận các sửa đổi trên bản vẽ hoàn công. Cách làm này phù hợp với điều kiện trước đây khi lao động còn dồi dào, nhưng trong môi trường ngày nay, nguồn lực hạn hẹp và cần được sử dụng một cách khôn ngoan.
Khóa chuyển đổi (switch) Ethernet hoạt động như cổng liên kết ngược (up link) cho phép truyền với tốc độ cao, tăng tốc độ truyền dữ liệu cần thiết cho việc liên kết các cơ cấu điều khiển, bảo vệ và thiết bị với nhau. Đường dẫn dữ liệu có thể có nhiều loại khác nhau – chẳng hạn như các đường dẫn điều khiển và kiểm tra, đường giám sát dữ liệu và truyền dữ liệu chung – có thể lưu trữ hay dọn dẹp khi cần thiết, do hệ thống thực hiện.
Các thiết bị bảo vệ và điều khiển đa chức năng sử dụng logic mềm, kết hợp với cáp sợi quang cho phép đơn giản hóa và tăng tốc toàn bộ quá trình, và đòi hỏi ít nhân công hơn nhiều. Ngoài ra, sử dụng cáp sợi quang còn có nhiều lợi ích vốn có của nó. Sợi quang miễn nhiễm với nhiễu điện từ, nhờ vậy có thể bố trí các thiết bị điện tử thông minh (IED) và các cảm biến ở khoảng cách rất xa, kết hợp nhiều cảm biến qua một sợi quang học duy nhất và việc lắp đặt cũng dễ dàng hơn.
Cùng thay đổi
Trong thế giới công nghệ cao hiện nay, chắc chắn mọi sự đều thay đổi và ngành điện buộc phải thay đổi theo, nếu không muốn trở nên lỗi thời và bị bỏ lại phía sau. Các kỹ sư luôn chịu áp lực, phải tiết kiệm tiền, cải tiến các thiết kế và xây dựng các hệ thống hiệu quả hơn. Một mặt phải nỗ lực hết mình, nhưng điều quan trọng là ngành điện phải biết tận dụng mọi lợi thế mà công nghệ đem lại, thậm chí cả những công nghệ tân kỳ nhất.
Công nghệ liên tục được định hình, phát triển và tiến lên, dẫn đến tính năng và chất lượng của thiết bị ngày một cải thiện. Các nhà chế tạo liên tục đưa vào áp dụng các ứng dụng mới về điều khiển số và các hệ thống truyền thông. Trạm biến áp hiện giờ được coi là hiện đại, nhưng rồi sẽ đến lúc các kỹ sư và kỹ thuật viên của tương lai sẽ ngạc nhiên tự hỏi làm thế nào mà ngành điện hồi đó lại có thể để đáp ứng nhu cầu điện năng với các thiết bị lỗi thời như vậy.
Các tiến bộ công nghệ đang tạo cảm hứng tư duy sáng tạo các trạm biến áp thế hệ tiếp theo. Trước đây, cái hạn chế các kỹ sư trạm biến áp là thiếu công cụ, nhưng giờ đây tình hình đã khác. Cái hạn chế chúng ta nhiều hơn hiện nay là liệu chúng ta có sẵn sàng chấp nhận hay không. Ngành điện giờ đây không phải chỉ có một túi công cụ mà là cả một tủ công cụ để tùy ý sử dụng.
KHCNĐ

Iran mời Ấn Độ khai thác dầu khí theo cơ chế mới


Phuchoiacquy - Theo TTXVN, trong khuôn khổ chuyến thăm Iran ba ngày để tham dự hội nghị Ủy ban chung Ấn Độ-Iran tại Tehran, ngày 4/5, Ngoại trưởng Ấn Độ Salman Khurshid đã thảo luận với người đồng cấp nước chủ nhà Ali Akbar Salehi các biện pháp nhằm tăng cường quan hệ giữa hai nước trên mọi lĩnh vực.

Ảnh minh họa
Theo cơ chế phân chia sản phẩm mới này, công ty Ấn Độ được phép thăm dò, sản xuất và tự do vận chuyển sản phẩm tới bất cứ nơi nào họ muốn.
Tin trực tuyến của báo The Times of India cho biết do nền kinh tế bị tê liệt trước các biện pháp cấm vận của Mỹ và châu Âu, Iran đã đưa ra một cơ chế chia sẻ sản phẩm mới về khai thác dầu mỏ nhằm “giữ chân” Ấn Độ - nước nhập dầu mỏ lớn thứ ba của Iran.
Theo cơ chế phân chia sản phẩm mới này, công ty Ấn Độ được phép thăm dò, sản xuất và tự do vận chuyển sản phẩm tới bất cứ nơi nào họ muốn.
Các công ty nhà nước của Ấn Độ, do ONGC dẫn đầu, đang thăm dò khí tại lô Farsi của Iran theo hợp đồng dịch vụ, nếu chuyển sang cơ chế chia sẻ sản phẩm mới thì New Delhi có thể được nhận gần 13.000 tỷ feet khối khí.
Ấn Độ đã nhập khoảng 13,3 triệu tấn dầu thô của Iran trong năm tài chính 2012-2013, giảm 18,1 triệu tấn so với tài khóa trước bởi các biện pháp trừng phạt của Mỹ và châu Âu đối với Tehran khiến Ấn Độ khó nhập khẩu dầu mỏ từ quốc gia vùng Vịnh này.
Hiện New Delhi đang thanh toán tiền nhập khẩu dầu cho Tehran bằng đồng rupee tại một ngân hàng ở Ấn Độ sau khi Mỹ và châu Âu phong tỏa các kênh thanh toán của Iran bằng đồng USD và euro.
Cũng tại cuộc họp trên, Ngoại trưởng Khurshid thông báo trên nguyên tắc Chính phủ Ấn Độ đã đồng ý tham gia dự án nâng cấp hải cảng chiến lược quan trọng Chahbahar của Iran.
Thứ trưởng bộ Hàng hải Ấn Độ sẽ tới Tehran để tiến hành các cuộc thương lượng về chi phí và các khía cạnh liên quan khác.
Phía Iran nhấn mạnh rằng dự án này quan trọng không chỉ đối với Iran và Afghanistan, mà toàn bộ khu vực Trung Á. Hai bên đã nhất trí tiến tới một thỏa thuận quá cảnh ba bên gồm Ấn Độ-Iran-Afghanistan, đồng thời thảo luận cách thức tăng cường các mối quan hệ thương mại và tiếp xúc giữa con người và con người, theo đó cần tự do hóa cơ chế thị thực.
nangluongvietnam

Điện mặt trời Việt Nam cần đi nhanh hơn?


Phuchoiacquy - Để đưa ánh sáng điện đến 100% vùng nông thôn, vùng núi, vùng sâu, vùng xa thì điện mặt trời có vai trò không thể thiếu được.
Ảnh minh họa
Tiềm năng dồi dào
Với những ưu thế như nguồn cung dồi dào vô tận, “vô giá” (không mất tiền mua) và sạch (không phát thải khí nhà kính), điện mặt trời đang trên đà phát triển mạnh mẽ ở nhiều nước, đặc biệt các nước công nghiệp phát triển như Đức, Mỹ, Tây Ban Nha, Italy, Nhật…
Việt Nam trải dài từ vĩ độ 23 độ 23’ Bắc đến 8 độ 27’ Bắc, là một đất nước ở vùng nhiệt đới có tiềm năng đáng kể về năng lượng mặt trời. Trên bản đồ bức xạ mặt trời của thế giới, Việt Nam là một trong những nước nằm trong giải phân bố nhiều nhất ánh nắng mặt trời trong năm.
Theo tài liệu khảo sát lượng bức xạ mặt trời cả nước, các tỉnh ở phía Bắc (từ Thừa Thiên – Huế trở ra) bình quân trong năm có chừng 1800 - 2100 giờ nắng. Trong đó, các vùng Tây Bắc (Lai Châu, Sơn La, Lào Cai) và vùng Bắc Trung Bộ (Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh) được xem là những vùng có nắng nhiều.
Các tỉnh ở phía Nam (từ Đà Nẵng trở vào), bình quân có khoảng 2000 - 2600 giờ nắng, lượng bức xạ mặt trời tăng 20% so với các tỉnh phía Bắc. Ở vùng này, mặt trời chiếu gần như quanh năm, kể cả vào mùa mưa. Do đó, đối với các địa phương ở Nam Trung bộ và Nam bộ, nguồn bức xạ mặt trời là một nguồn tài nguyên to lớn để khai thác sử dụng.
Một đặc điểm địa lý khác đối với nước ta là bờ biển dài hơn 3.000 km với nhiều hòn đảo có dân sinh sống hoặc có các đơn vị quân đội đồn trú thường xuyên nhưng khó đưa điện lưới đến được. Vì vậy, sử dụng năng lượng mặt trời nói chung và điện mặt trời nói riêng là biện pháp tối ưu nhằm đáp ứng nhu cầu của các vùng dân cư, có ý nghĩa lớn không chỉ về mặt kinh tế mà cả về an ninh quốc phòng.
Hạ tầng cơ sở ban đầu
Rõ ràng, tiềm năng điện mặt trời của nước ta dồi dào. Nhu cầu khai thác nguồn điện năng này, đặc biệt ở vùng sâu vùng xa lại rất lớn.
Từ khoảng ba bốn thập niên trước, nhiều nước trên thế giới bắt tay phát triển nguồn điện mặt trời, một số trung tâm nghiên cứu và đại học ở Việt Nam cũng đã nắm bắt xu hướng đó và đầu những năm 1990 đã bắt đầu xây dựng một số cơ sở hạ tầng.
Bước đi đầu tiên có ý nghĩa là việc đầu tư xây dựng phòng thí nghiệm bán dẫn của Đại học Quốc gia Hồ Chí Minh (với 5 triệu USD) và phòng thí nghiệm Nano của Khu công nghệ cao ở TP. Hồ Chí Minh (với với 11 triệu USD).
Cũng trong khoảng thời gian đó, các tổ chức nghiên cứu triển khai liên quan điện mặt trời cũng ra đời ở một vài viện nghiên cứu và trường đại học khác, như ở Phòng thí nghiệm SolarLab thuộc Viện Khoa học Việt Nam ở Thành phố Hồ Chí Minh, ở các Trung tâm Năng lượng Tái tạo của Đại học Bách khoa Hà nội hoặc ở Viện Năng lượng Việt Nam (thuộc Bộ Công thương).
Tuy vậy, trong giai đoạn đầu, nguồn đầu tư cho nghiên cứu và khai thác sử dụng điện mặt trời có tính nhỏ lẻ, chủ yếu từ các tổ chức quốc tế và nhà nước.
Đến những năm gần đây, một số công ty tư nhân bắt đầu chú ý đầu tư hơn vào lĩnh vực mới này, tập trung vào công nghệ sản xuất pin quang điện PV.
Trong số đó phải kể đến Công ty cổ phần Năng lượng Mặt Trời Đỏ thành lập năm 2007 ở TP. Hồ Chí Minh. Công ty này đã cung cấp các tấm pin năng lượng mặt trời công suất từ 50 kWp đến 175 kWp đạt tiêu chuẩn châu Âu cho các nhà máy sản xuất pin mặt trời ở Bình Dương, TP. Hồ Chí Minh, đồng thời triển khai thiết kế lắp các công trình, dự án hệ thống điện mặt trời cho các địa phương.
Nhưng cơ sở hạ tầng lớn nhất nước ta hiện nay chính là nhà máy pin năng lượng mặt trời với vốn đầu tư 1 tỷ USD thuộc Tập đoàn First Solar (Mỹ) mới khởi công tại TP. Hồ Chí Minh vào đầu năm 2011. Nhà máy này có kế hoạch sản xuất các mô-đun năng lượng mặt trời phim màng mỏng với tổng công suất trên 250 MW và có thể được mở rộng hơn trong tương lai.
Các cơ sở sản xuất và triển khai điện mặt trời kể trên cùng với các cơ sở khác nằm rải rác các vùng là nền tảng đầu tiên để Việt Nam có được một nền công nghiệp điện mặt trời trong tương tương lai sắp tới. Nhưng để xây dựng một nền công nghiệp như vậy, nước ta cần đầu tư để sớm có các nhà máy có sản lượng chế tạo pin mặt trời với công suất cao hơn và mở ra hướng mới sử dụng công nghệ khác, đó là công nghiệp nhiệt điện mặt trời hay công nghệ điện mặt trời hội tụ CSP (concentrating solar power plant).
Ánh sáng đến vùng sâu, vùng xa
Song hành với xây dựng hạ tầng cơ sở là từng bước đưa ánh sáng của điện mặt trời thắp sáng một số nơi trên các vùng khác nhau của đất nước.
Trong thời kỳ đầu Solarlab đã áp dụng công nghệ lai ghép các nguồn năng lượng tái tạo (Madicub) sử dụng trong xe cứu thương, tàu thuỷ và khu biệt thự. Cũng Solarlab đã lắp đặt hệ điện mặt trời nối lưới SIPV.
Tiếp theo, điện mặt trời đã được chú ý đưa ra vùng xa thành phố. Chẳng hạn, từ những năm 1990, Phân viện Vật lý TP Hồ Chí Minh bắt đầu đưa điện mặt trời đến một số nhà văn hoá, bệnh viện…thuộc các huyện Bình Chánh, Cần Giờ, Củ Chi, và đặc biệt đã cung cấp điện cho 50% số hộ dân sống trên đảo Thiềng Liềng, huyện Cần Giờ thuộc TP. Hồ Chí Minh.
Hoặc, một dự án trọng điểm SELCO, với sự hợp tác của Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam với trên 600 hệ thống đang trong quá trình hoạt động. Công suất của các tấm pin PV nằm trong dải từ 500 Wp đến 1500 Wp đã được lắp đặt ở các tỉnh thuộc miền nam cho các hộ gia đình, bệnh viện, trường học và làng xã.
Tổng công suất pin mặt trời lắp đặt tại Việt Nam lên đến 4 MW vào năm 2010. Dù con số công suất này còn rất nhỏ bé so với cả các nguồn điện năng tái tạo khác, nhưng điện mặt trời cũng đã bắt đầu góp phần lan tỏa ánh sáng đến với một số vùng nông thôn, vùng sâu vùng xa và đặc biệt ở các hải đảo. Có khoảng 4.000 hộ gia đình hưởng lợi từ hệ thống điện mặt trời quy mô gia đình và 12.000 người trên khắp vùng miền cả nước đang nhận được điện từ hệ thống pin PV.
Riêng đối với các hải đảo, một số hệ điện mặt trời đã được lắp đặt.
Với sự nỗ lực của các đơn vị nghiên cứu triển khai trong nước, hệ pin mặt trời trên quần đảo Trường Sa với 4.093 tấm pin mặt trời loại 220 Wp đã được lắp đặt.
Hoặc, dự án lắp giàn pin mặt trời cung cấp điện cho một số hộ gia đình và các trạm biên phòng ở đảo Cô Tô (Quảng Ninh) đã hoàn thành tháng 11/2002.
Một số hệ pin mặt trời khác đã được triển khai với sự tài trợ quốc tế, như: hệ điện mặt trời kết hợp diesel gồm có 166 tấm pin mặt trời công suất 28 kW và 2 máy phát có tổng công suất 20 kW tại đảo Cù Lao Chàm (Quảng Nam) do chính phủ Thụy Điển tài trợ; hệ điện mặt trời công suất 5 kWp tại đảo Hòn Chuối (Cà Mau) trong khuôn khổ dự án Solar Campus v.v…
Tuy vậy, ở nhiều bản làng vùng núi cao, giao thông cách trở, không ít hải đảo nhỏ xa xôi, nguồn điện vẫn chưa đến được hoặc không thường xuyên, trong lúc chủ trương điện khí hóa 100% toàn bộ lãnh thổ Việt Nam vào năm 2025 không còn quá xa nữa.
Chủ trương và biện pháp tích cực
Tóm lại, trong xu thế chung của thế giới, điện mặt trời đã được triển khai ở Việt Nam hơn hai mươi năm nay.
Trên đất nước đã xuất hiện những trung tâm nghiên cứu và triển khai với một số lượng chuyên gia có kinh nghiệm, một số nhà máy sản xuất pin mặt trời với công suất lớn khác nhau. Dù chưa nhiều, nhưng đó là những tiền đề cho một chương trình phát triển điện mặt trời rộng lớn hơn trong tương lai sắp tới.
Điện mặt trời đã đến được với nhiều buôn làng, vùng sâu vùng xa và hải đảo xa xôi, những nơi cách xa với nguồn điện lưới quốc gia và cũng không dễ dàng cho sự triển khai của các tháp điện gió.
Nhưng, nhìn chung, cho đến nay các dự án điện mặt trời trên cả ba vùng đất nước đang còn rất nhỏ lẻ và tốc độ phát triển điện mặt trời ở nước ta vẫn còn khá chậm, nếu so sánh với một số nước trong khu vực xung quanh.
Điều này cũng là dễ hiểu, khi công nghệ điện mặt trời vẫn còn mới và giá thành đầu tư hay giá điện mặt trời con khá cao so với các nguồn điện tái tạo khác như thủy điện, điện gió.
Tuy vậy, trong tương lai không xa, nguồn nhiên liệu cho nhiệt điện sẽ cạn kiệt, nguồn thủy điện cũng không còn nhiều để khai thác, lúc đó điện mặt trời sẽ cần phát triển để tham gia cùng với điện hạt nhân, điện gió nhằm đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng của sự phát triển đất nước.
Đặc biệt, trong chương trình điện khí hóa 100% vùng nông thôn, vùng núi, vùng sâu, vùng xa thì điện mặt trời (kết hợp với các nguồn điện diesel, thủy điện nhỏ, điện gió…) có vai trò lớn.
Vì vậy, một quy hoạch cụ thể về phát triển điện mặt trời cần sớm hoàn chỉnh và triển khai (chưa được cụ thể hóa trong Quy hoạch điện VII hay “Quy hoạch phát triển điện lực quốc gia giai đoạn 2011-2020 có xét đến năm 2030” đã được chính phủ phê duyệt), đồng thời một chính sách kích cầu và hỗ trợ cho đầu tư, xây dựng và biện pháp bù giá điện mạnh cho người tiêu dùng cần sớm được hoàn chỉnh và ban hành.
Thiếu khẩn trương thực thi những chủ trương, biện pháp tích cực, đồng bộ và thiết thực, điện mặt trời nước ta vẫn đi chậm trước nhu cầu phát triển của đất nước và sẽ không tiến kịp nhịp độ phát triển với trên thế giới, và thậm chí cả các nước trong khu vực.
Hoàng Hà - Vietnamnet