Hiển thị các bài đăng có nhãn An ninh năng lượng. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn An ninh năng lượng. Hiển thị tất cả bài đăng

Chủ Nhật, 5 tháng 5, 2013

Ký kết đảm bảo an ninh cho điện hạt nhân Ninh Thuận


Phuchoiacquy - Chiều 3/5, Công an tỉnh Ninh Thuận và Ban quản lý Dự án Điện hạt nhân Ninh Thuận đã thỏa thuận, ký kết và triển khai thực hiện Quy chế phối hợp bảo đảm an ninh, an toàn các dự án thành phần do Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN) làm chủ đầu tư thuộc Dự án Nhà máy điện hạt nhân Ninh Thuận.


Mô hình Nhà máy điện hạt nhân của Việt Nam
Hai bên thảo luận, thống nhất thông qua Quy chế qui định nội dung, biện pháp phối hợp đảm bảo an ninh và an toàn đối với các hoạt động của Dự án Điện hạt nhân Ninh Thuận, nhằm phát huy sức mạnh tổng hợp, nâng cao trách nhiệm, hiệu quả trong công tác bảo vệ an ninh nội bộ, an ninh kinh tế, phòng ngừa, phát hiện các hành vi vi phạm pháp luật, giữ gìn trật tự, an toàn cơ quan.
Công an tỉnh Ninh Thuận, Ban quản lý dự án trong phạm vi chức năng, nhiệm vụ được Nhà nước giao, có kế hoạch phối hợp chặt chẽ bảo vệ an toàn tài sản của Nhà nước, tập thể và cá nhân, quyền và lợi ích hợp pháp của các tổ chức và cá nhân có liên quan.
Hai bên tăng cường công tác quản lý Nhà nước trên lĩnh vực an ninh, trật tự và an toàn cho các hoạt động tại các dự án thành phần do EVN làm chủ đầu tư thuộc Dự án Điện hạt nhân Ninh Thuận; bảo vệ bí mật Nhà nước, bí mật ngành điện và bảo vệ an ninh chính trị nội bộ trong Ban quản lý dự án; tuyên truyền, nâng cao ý thức trách nhiệm bảo vệ an ninh Tổ quốc, xây dựng cơ quan, đơn vị an toàn; phối hợp đảm bảo an ninh, bảo vệ an toàn đội ngũ công chức, các chuyên gia nước ngoài, các đoàn khách đến làm việc tại Ban quản lý dự án.
Quy chế cũng quy định rõ về nguyên tắc, nội dung nhiệm vụ của Ban quản lý dự án, nhiệm vụ của Công an tỉnh Ninh Thuận. Thời gian thực hiện quy chế kể từ ngày 3/5/2013 đến khi 2 đơn vị thống nhất sơ kết và xây dựng ký kết quy chế mới.
Tại lễ ký kết, các đại biểu đã nghe báo cáo, tham gia thảo luận tình hình thực hiện các dự án thành phần thuộc Dự án Nhà máy Điện hạt nhân Ninh Thuận; tình hình thực hiện công tác đảm bảo an ninh Dự án Điện hạt nhân Ninh Thuận và đề ra một số nhiệm vụ trọng tâm trong thời gian tới.
NLVN

Thứ Ba, 18 tháng 12, 2012

Trung Quốc có thực hiện được "cuộc cách mạng khí đốt"?



Phuchoiacquy - Theo đài “Tiếng nói nước Nga”, 3 nước là Canada, Mỹ và Australia sẽ không cho Trung Quốc tiến hành "cuộc cách mạng khí đốt". Về mặt thương mại cũng như về mặt chính trị, các nước này hoàn toàn không có lợi nếu chuyển giao cho Trung Quốc công nghệ khai thác khí đá phiến sét và khí metan mỏ than. Điều này đã được Tổng giám đốc Quỹ an ninh năng lượng quốc gia Konstantin Simonov công bố với đài "Tiếng nói nước Nga".
Trong thời gian qua, các công ty dầu khí của Trung Quốc đang ngày càng mở rộng hiện diện trong thị trường khí đốt không truyền thống toàn cầu. Tập đoàn dầu khí Trung Quốc - PetroChina đang đầu tư vào dự án chung với công ty Canada Encana 2,2 tỷ USD, khai thác dự trữ khí đá phiến sét ở tỉnh Alberta của Canada. PetroChina cũng đã công bố việc mua lại cổ phần trong hai dự án về khai thác và hóa lỏng metan mỏ ở Australia và đã chi trả 1,63 tỷ USD. Ngoài ra, Trung Quốc đã sở hữu cổ phần trong các dự án với Hoa Kỳ, Anh và Australia để sản xuất hóa lỏng khí tự nhiên, bao gồm cả từ khí đá phiến sét.
Trước thực trạn đó, các nhà chức trách Canada đã thông qua dự án, công ty dầu khí Trung Quốc CNOOC sát nhập với tập đoàn Canada Nexen với 15,1 tỷ USD (tập đoàn này chuyên khai thác hydrocarbon ngoài khơi).
Trong các dự án này, điều trước hết mà Trung Quốc cần là công nghệ. Trung Quốc sẽ tiến hành "cuộc cách mạng khí đốt" của họ, nhưng các đối tác của Trung Quốc sẽ tiến hành các ván bài riêng.
Ông Konstantin Simonov cho biết, “Người Canada, người Australiavà thậm chí nhiều người Mỹ không muốn chia sẻ với Trung Quốc các công nghệ này. Tất nhiên, họ cần tiền, do đó, người Canada sẽ sử dụng các mô hình liên quan đến sự tham gia thương mại mà không tiếp cận với các giải pháp kỹ thuật”.
Các đối tác của Trung Quốc sẽ làm bất cứ điều gì để hạn chế xuất khẩu công nghệ khai thác khí đốt không truyền thống và công nghệ sản xuất khí hóa lỏng sang Trung Quốc. Một trong những nguyên nhân là lý do chính trị. Sau tất cả, Hoa Kỳ coi Trung Quốc là đối thủ địa chính trị chủ yếu của mình, còn ảnh hưởng chính trị của Trung Quốc ở Canada và Australia là vô cùng to lớn. Có một lý do khác hoàn toàn mang tính chất thương mại.
Theo ông Konstantin Simonov, “hiện nay rất phổ biến khái niệm xuất khẩu LNG từ Mỹ và Canada. Dự báo kim ngạch xuất khẩu từCanada được phóng đại rất nhiều, nhưng là có thật. Canada tin tưởng vào khả năng cung cấp LNG xuất khẩu sang Trung Quốc. Và như vậy, tất nhiên, Canada không nên cung cấp cho Trung Quốc khả năng kỹ thuật để xây dựng ngành sản xuất riêng của Trung Quốc. Bởi vì nếu Trung Quốc sẽ tăng sản xuất khí độc đáo của mình, khối lượng xuất khẩu sang Trung Quốc sẽ giảm. Điều này có nghĩa là cơ hội các công ty Canada xuất khẩu LNG cho Trung Quốc tự nhiên sẽ giảm".
Điều này cũng đúng trong trường hợp của Australia. Sau tai nạn công nghệ tại nhà máy "Fukushima", LNG của Australia xuất sang Nhật Bản đã giúp thỏa mãn cơn khát năng lượng. Các chuyên gia bắt đầu nói chuyện nghiêm túc về khả năng tăng nguồn cung cấp khí đốt tự nhiên của Australia sang Trung Quốc. Vì vậy, trong các dự án với Australia có nguy cơ cao gặp phải các rào cản đối với sản xuất, nhập khẩu công nghệ và hóa lỏng khí metan mỏ than. Trung Quốc đã tiến hành những động thái đầu tiên khá mạnh trong "mưu đồ công nghệ." Nhưng kết quả của âm mưu này có thể sẽ không rõ ràng.
NLVN

"An toàn hạt nhân cần được quan tâm thường xuyên và liên tục"



Phuchoiacquy - Sau ba ngày làm việc, ngày 17/12, Hội nghị quốc tế về an toàn hạt nhân đã bế mạc tại thành phố Fukushima, miền Đông Bắc Nhật Bản, với lời kêu gọi tiếp tục nỗ lực nhằm đảm bảo an toàn cho các cơ sở hạt nhân và hợp tác đánh giá tác động của hiện tượng rò rỉ phóng xạ trong sự cố hạt nhân.

Toàn cảnh hội nghị quốc tế về an toàn hạt nhân. (Nguồn: AFP/TTXVN)
Hội nghị do Chính phủ Nhật Bản và Cơ quan Năng lượng Nguyên tử quốc tế (IAEA) đồng tổ chức. Các tài liệu kết luận của hội nghị nêu rõ, tăng cường an toàn hạt nhân cần được quan tâm thường xuyên và liên tục.
Thảm họa hạt nhân hồi tháng 3/2011 ở Fukushima là lời nhắc nhở về tầm quan trọng của việc đề cao cảnh giác đối với những yếu tố khách quan như: lũ lụt, động đất và sóng thần, đồng thời cho thấy sự cần thiết phải phát hiện những nguy cơ và tìm ra biện pháp ứng phó thích hợp trong công tác bảo vệ các nhà máy điện hạt nhân.
Các đại biểu tham dự hội nghị đều nhất trí rằng đã đạt được "tiến bộ đáng kể" trong Chương trình Hành động của IAEA về An toàn hạt nhân, được soạn thảo hồi tháng 9/2011.
Kế hoạch này yêu cầu các nước thành viên thực hiện đánh giá an toàn của các nhà máy điện hạt nhân và nâng cao tính hiệu quả trong hoạt động của các cơ quan giám sát, nhằm tăng cường an toàn hạt nhân sau các thảm họa hạt nhân của thế giới như vụ Fukushima vừa qua và trước đó là vụ Chernobyl năm 1986.
TTXVN

Xóa sổ những nỗi lo thường trực trong quản lý thủy điện



Phuchoiacquy- Mối quan tâm sâu sắc của các nhà khoa học và của người dân về thủy điện - thủy hại có thể sẽ được giải tỏa khi mà kiến nghị của Bộ Công Thương về việc xóa sổ một loạt dự án thủy điện nhỏ được chấp thuận.
Sở dĩ Bộ Công Thương phải thổi còi vì lâu nay, quyền cấp phép đầu tư thủy điện được phân cấp cho địa phương. Ngày 12/12 Bộ Công Thương có báo cáo Thủ tướng Chính phủ kết quả rà soát quy hoạch và đầu tư xây dựng các dự án thủy điện trên cả nước. Theo đó, Bộ này đã kiến nghị Thủ tướng chỉ đạo loại bỏ 324 dự án thủy điện nhỏ.
Cụ thể, ngoài 64 dự án thủy điện nhỏ (có tổng công suất 226MW) đã được các tỉnh thống nhất loại bỏ, Bộ Công Thương kiến nghị Thủ tướng Chính phủ chỉ đạo loại bỏ thêm 260 dự án thủy điện nhỏ nữa (có công suất tổng cộng 434MW) và 3 điểm được cho là có tiềm năng nhưng chưa có nhà đầu tư đăng ký từ khi phê duyệt quy hoạch hoặc đã nghiên cứu đầu tư nhưng hiệu quả thấp...
Trước đó, từ tháng 12/2009, Bộ Công Thương đã phối hợp với UBND các tỉnh có thủy điện rà soát, đánh giá quy hoạch và đầu tư xây dựng các dự án thủy điện trên địa bàn. Trong đó, Bộ Công Thương đã yêu cầu nghiên cứu điều chỉnh hợp lý quy mô, tức là loại bỏ các dự án hiệu quả thấp, quy mô nhỏ, có tác động tiêu cực đến môi trường - xã hội, ảnh hưởng đến các quy hoạch khác, không thuận lợi về giao thông và hòa lưới điện.
Trên cơ sở đó, UBND các tỉnh đã thống nhất loại khỏi quy hoạch 117 dự án thủy điện (có tổng công suất 617MW, không xem xét bổ sung vào quy hoạch 156 vị trí đã xác định thông qua nghiên cứu quy hoạch, có tiềm năng khai thác khoảng 335MW).
Ngoài các dự án đã được các tỉnh thống nhất loại khỏi quy hoạch, cả nước hiện có tổng số 1.110 công trình, dự án thủy điện với tổng công suất lắp máy khoảng 25.291MW, kể cả các công trình đã được xây dựng trước khi lập quy hoạch chung.
Bộ Công Thương cho biết, các dự án thủy điện nhỏ phân bố rải rác, chủ yếu thuộc các khu vực có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn và đặc biệt khó khăn, hạ tầng giao thông và lưới điện còn nhiều hạn chế; nhu cầu phụ tải tại chỗ thấp nên phải truyền tải điện năng đi xa, gây tổn thất lớn, làm giảm hiệu quả đầu tư... Vì vậy, để đảm bảo đầu tư xây dựng các dự án thủy điện có hiệu quả, bảo vệ môi trường tự nhiên và xã hội, phù hợp với tăng trưởng phụ tải điện hiện nay khoảng 10%/năm, Bộ Công Thương kiến nghị Thủ tướng chỉ đạo các tỉnh tạm dừng và chỉ xem xét cho phép đầu tư xây dựng từ sau năm 2015 đối với 102 dự án thủy điện nhỏ có tổng công suất 662,8MW.
Bộ Công Thương cũng kiến nghị rà soát, đánh giá 197 dự án thủy điện đã và đang nghiên cứu đầu tư nhưng chưa khởi công xây dựng, có tác động tiêu cực lớn đối với môi trường - xã hội, hiệu quả thấp, ảnh hưởng đến các quy hoạch khác...
Vậy là Bộ Công Thương đã cất tiếng còi cần thiết và đúng lúc nhằm xóa sổ một loạt mối lo thường trực của cả nhân dân và cơ quan quản lý về thủy điện thủy hại. Nên lắm thay!
PTT

Tất cả những dự báo về tương lai năng lượng thế giới đều sai!



Phuchoiacquy - Những dự đoán về nguồn năng lượng chúng ta sẽ sử dụng và sản xuất có một điểm chung duy nhất: Tất cả đều sai!
Theo như dự đoán từ những năm 1950, năng lượng hạt nhân sẽ trở nên rất rẻ, hay theo như dự đoán từ những năm 1970, trái đất sẽ sử dụng nguồn năng lượng chính là năng lượng mặt trời vào cuối thế kỉ 20, tất cả những lời tiên đoán trên đều không trở thành sự thực và dường như nó đến từ những cơ sở thông tin vô cùng mơ hồ.
Hiện nay, xu hướng năng lượng chính của toàn cầu chính là khí gas tự nhiên.
Những tiến bộ về khoa học công nghệ, các khám phá mới, những cuộc khủng hoảng kinh tế không được báo trước, các lo ngại về môi trường - tất cả các yếu tố này có thể sẽ làm hỏng mọi suy đoán về nguồn năng lượng chúng ta sẽ sử dụng trong tương lai.
Cơ quan Năng lượng Quốc tế (IEA) cho biết, xu hướng tiêu thụ năng lượng toàn cầu hiện nay đang làm cho trái đất ấm lên khoảng 6 độ C trên mức độ tiền công nghiệp. Vào năm 2100, nếu chúng ta không làm gì để thay đổi điều này, những thay đổi khí hậu sẽ biến trái đất thành một hành tinh hoàn toàn khác. Đây sẽ là một cuộc khủng hoảng cho tất cả chúng ta.
Những lời cảnh báo về sự thay đổi thời tiết của IEA đang nhận được sự quan tâm nhiều nhất trong mọi chủ đề - một phần bởi vì nó xảy ra ngay trước khi Liên Hợp Quốc (UN) tổ chức hội nghị khí hậu thường niên ở cùng một tuyến đường ở phía bắc châu Phi trong thành phố Durban. Bên cạnh đó, bản báo cáo cũng có những con số gây bất ngờ về ngành năng lượng trong tương lai.
Những chuyển biến trong lĩnh vực dầu thô
Từ nhiều thập kỉ nay, Mỹ là nước nhập khẩu dầu thô đứng đầu thế giới, 11 triệu thùng dầu thô mỗi ngày trong năm 2010. Sự mất cân bằng này đã khiến Mỹ tốn rất nhiều tiền - trên 300 tỷ USD vào năm 2011, hơn nữa nó gây ảnh hưởng đến các chính sách đối ngoại của các nước và biến Mỹ trở thành thống lĩnh trong lĩnh vực dầu thô.
Cuộc chiến tại Iraq và Afghanistan không có mục đích dầu mỏ, nhưng không thể phủ nhận việc nguồn dầu mỏ dồi dào của Trung Đông cũng là một phần khiến cuộc chiến kéo dài liên miên.
Nhằm tăng mức độ sử dụng hiệu quả nguồn năng lượng và tận dụng các nguồn tài nguyên mới, việc nhập khẩu dầu thô của Mỹ giảm mạnh. IEA dự đoán Mỹ sẽ giảm lượng dầu thô nhập khẩu chỉ còn một nửa vào năm 2035, trong khi lượng dầu nhập khẩu của châu Âu vẫn sẽ tăng.
Đến năm 2015, IEA dự đoán rằng, Liên Minh châu Âu sẽ nhập khẩu lượng dầu thô nhiều hơn Mỹ và đến năm 2035, Trung Quốc có thể sẽ nhập khẩu một lượng dầu lớn gấp hai lần Mỹ. Điều này sẽ kích thích các vấn đề an ninh dầu mỏ.
Tương lai của ngành năng lượng là khí gas
Chúng ta thường ngộ nhận rằng, nguồn dự trữ dầu mỏ và khí gas luôn cố định, sự phát triển công nghệ là điều chỉ xảy ra ở những ngành công nghệ sạch.
Tuy nhiên, nó không chính xác trong trường hợp này. Khí gas và dầu thô đòi hỏi công nghệ cao và các phương pháp mới cho phép các ngành công nghiệp sở hữu những nguồn dự trữ mới. Đây cũng là thực trạng của khí gas và các viên đá phiến chứa gas, chính nhờ những nguồn tài nguyên này mà nguồn dự trữ khí gas tự nhiên của Mỹ được cải thiện đáng kể và ảnh hưởng trực tiếp đến thế giới. Vì thế, giá cả dầu thô sạch hiện giờ đã có thể cạnh tranh về mặt giá cả với than đá.
Do vậy, bây giờ chính là thời kì hoàng kim của khí gas.
Nhưng thời kì hoàng kim này có thể tan biến bởi những lo lắng về vấn đề ô nhiễm từ các khe hở khai thác khí gas. Các nhà nghiên cứu môi trường lo lắng rằng, các lỗ hổng và việc khoan sẽ làm sôi các nguồn nước ngầm ở xung quanh và các hộ dân trong khu khai thác khí gas cũng vô cùng khó chịu với sự công nghiệp hóa cùng với đó là những ảnh hưởng do việc khoan khai thác gây ra.
Chúng ta thường ngộ nhận rằng, nguồn dự trữ dầu mỏ và khí gas luôn cố định,sự phát triển công nghệ là điều chỉ xảy ra ở những ngành công nghệ sạch. Ảnh: Ibtimes
Đa số các vấn đề môi trường này có thể kiểm soát được với những sự điều chỉnh thích hợp - đặc biệt là khi đem ra so sánh với than đốt, nhưng nếu không có những luật lệ tốt hơn trong lĩnh vực này, rất có thể cuộc chạy đua khí gas này sẽ trở nên lộn xộn.
IEA cho biết: Mỹ đã đem đến một nguồn cung năng lượng quốc tế mới đến từ những viên đá chứa khí gas. Nhưng nếu bạn thực sự tìm kiếm thời kì hoàng kim của khí gas, bạn sẽ cần tuân thủ những luật lệ.
Cần có chế độ sử dụng hợp lý
Nếu có một điểm chung không cần bàn cãi về năng lượng, đó chính là chúng ta phải sử dụng nó một cách hiệu quả hơn. Tiêu phí năng lượng chính là tiêu phí tiền của, nhất là khi giá dầu thô đang ở mức cao và không có bất cứ một dấu hiệu nào cho thấy nó sẽ giảm bớt.
Tại Mỹ, việc sử dụng hợp lí năng lượng chính là một chính sách môi trường thành công của Tổng thống Mỹ Obama khi đẩy mạnh các công trình xanh và viện trợ những khoản ủy thác về khí gas.
Thật kém may mắn khi phần lớn thế giới sử dụng năng lượng một cách không hiệu quả. Những con số IEA cung cấp cho thấy, xu hướng chung của toàn cầu trong những năm qua, chúng ta tốn nhiều carbon hơn khi sản xuất những sản phẩm công nghiệp. Điều này đồng nghĩa với việc chúng ta đang đi ngược lại hướng cần phải làm, tăng cường lượng carbon trong không khí thay vì giảm thiểu chúng, tất cả điều này là do các nguồn năng lượng không sạch như than đốt và các cách khai thác không hiệu quả liên tục gia tăng ở các quốc gia như Trung Quốc và Ấn Độ.
Điều này là dấu hiệu cho thấy sự chuyển tiếp của nguồn năng lượng sạch sẽ khó như thế nào.
Than đá rất rẻ và nhiều, nhưng nếu chúng ta không thể quay lưng lại với nó,số phận của chúng ta gần như đã được định đoạt. Ảnh: Tradequip
Than đá vẫn sẽ được sử dụng trong tương lai
Ngành công nghiệp Mỹ đã khuyên Tổng thống Obama điều chỉnh khuynh hướng và tổ chức một cuộc vận động “nói không với than đá”. Các nhà nghiên cứu môi trường đang tổ chức những chiến dịch vận động Mỹ ngừng sử dụng than đá. Các nguồn năng lượng mặt trời, gió và khí gas tự nhiên đều nhận được những ý kiến tích cực.
Tuy vậy, sự thật là than đá đã tạo ra gần như toàn bộ nguồn năng lượng chúng ta sử dụng trong quá khứ và nó vẫn tạo ra một lượng lớn nguồn năng lượng chúng ta đang sử dụng - và theo các suy đoán logic hay các thay đổi không đáng kể, than đá vẫn sẽ đóng vai trò quan trọng trong việc tạo ra nguồn năng lượng trong tương lai.
IEA cho biết: Chúng ta rất ít khi nói về than đá, nhưng trong vòng 10 năm qua, 50% sự tăng trưởng tiêu thụ năng lượng toàn cầu đều được đáp ứng nhờ than đá.
Chính sự thật đó đã lí giải vì sao trái đất vẫn nóng lên. Các thành phố đã phát triển trên thế giới đã hạn chế được nguồn năng lượng than đá, nhưng những quốc gia như Trung Quốc vẫn đang sử dụng rất nhiều than đá như bạn có thể thấy một bầu trời tràn ngập khói của Bắc Kinh.
Than đá rất rẻ và nhiều, nhưng nếu chúng ta không thể quay lưng lại với nó, số phận của chúng ta gần như đã được định đoạt.
2 tỷ người không được sử dụng các nguồn năng lượng hiện đại
Cho tất cả những ai lo lắng về đỉnh tăng trưởng của dầu thô, hay sự thay đổi khí hậu, hãy biết có gần 2 tỷ người trên hành tinh không được tiếp cận với các nguồn năng lượng hiện đại. Họ gần như sống trong bóng tối, trong khi chúng ta tạo nên tương lai sạch hơn, xanh hơn cho ngành năng lượng công nghiệp, chúng ta không thể hoàn toàn lãng quên họ. Sự thiếu hiểu biết về các nguồn năng lượng một cách tự nhiên khiến 2 tỷ người ấy sống vô cùng nghèo đói.
Để có thể mang lại sự giúp đỡ tới các hộ gia đình chìm trong nghèo đói và lạc hậu này, UN đã đặt năm 2012 là năm quốc tế của các nguồn năng lượng, đảm bảo để giúp ích cho việc nâng cao khả năng nhận thức của toàn cầu trong sự phát triển của nghị trình.
Nhưng nếu muốn tìm ra cách để đem ánh sáng đến những nơi cận Sahara ở châu Phi, chúng ta cần sự hợp tác của những công ty lớn. Chúng ta cần những công ty năng lượng lớn xem xét lại vấn đề này một cách nghiêm túc.ư
NLVN

Chủ Nhật, 18 tháng 11, 2012

“Bước đột phá” trong công nghệ hạt nhân toàn cầu (Kỳ 1)


Phuchoiacquy - Điều mà công ty GA muốn công bố với toàn thế giới là, mô hình lò phản ứng hạt nhân thế hệ mới của họ - lò phản ứng hạt nhân theo thiết kế EM2, sẽ thoát khỏi tư duy thiết kế của tất cả các thế hệ lò phản ứng hạt nhân từ trước đến nay. Đây mới thực sự là “bước đột phá” trong công nghệ hạt nhân của nhân loại…


Liệu mô hình lò phản ứng hạt nhân nước nhẹ đã trở thành “chuyện ngày hôm qua”?
Mô hình lò phản ứng hạt nhân nước nhẹ cổ điển
Kể từ mô hình lò phản ứng hạt nhân đời đầu được thiết kế và xây dựng trong thập niên 1950. Trước nhu cầu và tiêu chuẩn ngày càng khắt khe hơn của thời đại mới, thì những phát minh trong công nghệ xây dựng và thiết kế lò phản ứng hạt nhân, đang là điều mà nhân loại thực sự mong chờ.
Ông Adm. Hyman G. Rickover, nhà khoa học quân sự người Mỹ, cha đẻ của các thiết kế tàu chiến sử dụng năng lượng hạt nhân, đồng thời ông cũng là một trong những nhà khoa học nổi tiếng trong công nghệ hạt nhân dân sự, tin tưởng rằng, công nghệ xây dựng lò phản ứng hạt nhân mới trong tương lai vẫn sẽ dựa trên công nghệ hiện tại.
Điển hình là thiết kế lò phản ứng hạt nhân nước nhẹ (LWR), một trong những thành tựu “sáng giá” trong sự nghiệp của ông Rickover.
Nhận định của ông Rickover không phải là vô căn cứ, vì thiết kế lò phản ứng hạt nhân nước nhẹ có thể dễ dàng tìm thấy thông qua các thiết kế của mô hình lò phản ứng hạt nhân thế hệ thứ 2, 3, 3 + và cả một số mô hình lò phản ứng hạt nhân thế hệ thứ 4 - mô hình được cho là công nghệ xây dựng lò phản ứng hạt nhân cho tương lai loài người.
Hiện nay, hầu hết các lò phản ứng hạt nhân trên thế giới đều là các lò phản ứng hạt nhân nước nhẹ.
Theo số liệu của Cơ quan Năng lượng Nguyên tử Quốc tế, hiện nay trên thế giới có hơn 360 lò phản ứng hạt nhân nước nhẹ, 40 lò phản ứng nước nhẹ khác đang trong quá trình xây dựng.
Các tên gọi như: Lò nước sôi ( BWR ), lò nước áp lực (PWR) và lò nước nặng (PHWR), đều là các thiết kế khác nhau của lò phản ứng hạt nhân nước nhẹ.
Tuy nhiên, các nhà khoa học thuộc công ty công nghệ hạt nhân General Atomics (GA), California, một công ty nổi tiếng trong lĩnh vực công nghệ tại Mỹ, lại cho rằng, công nghệ lò phản ứng hạt nhân nước nhẹ đã là “chuyện ngày hôm qua”.
Theo họ, nếu dùng các phát minh của nhân loại để so sánh với công nghệ lò phản ứng hạt nhân nước nhẹ, thì người ta sẽ liên tưởng ngay những công nghệ “đời đầu” của nhân loại như, phim đen trắng, máy bay sử dụng động cơ cánh quạt, máy tính bảng và điện thoại dây…
Công ty GA tự tin tuyên bố rằng, với phát minh đột phá về công nghệ xây dựng lò phản ứng hạt nhân mới của mình, thì công ty sẽ khép lại thời kỳ mà nhân loại chỉ biết tới phát triển các lò phản ứng hạt nhân nước nhẹ trong suốt những thập kỷ vừa qua.

Mô hình thử nghiệm lò phản ứng hạt nhân MASLWR - mô hình lò phản ứng hạt nhân thế hệ thứ 4 dựa theo thiết kế của lò phản ứng hạt nhân nước nhẹ cổ điển
Hầu hết các phát minh trong lĩnh vực thiết kế, xây dựng lò phản ứng hạt nhân toàn cầu lại chủ yếu xoay quanh việc cải tiến mô hình lò phản ứng hạt nhân nước nhẹ, điển hình là các thiết kế mô hình lò phản ứng hạt nhân thế hệ thứ 3, 3+ được cải tiến, phát triển từ mô hình lò phản ứng hạt nhân thế hệ thứ 2.
Đáng nói hơn là, ngay cả thế hệ lò phản ứng hạt nhân thứ 4, được kỳ vọng là sẽ mở ra kỷ nguyên mới cho ngành năng lượng hạt nhân, thì một số thiết kế, phát minh mới gần đây của các công ty, tập đoàn khoa học công nghệ khác, dù có những bước tiến dài trong phát triển công nghệ hạt nhân, lại vẫn đi theo mô hình cơ bản của các thế hệ lò phản ứng hạt nhân nước nhẹ thế hệ trước.
Vì nguyên nhân trên, mà điều công ty GA muốn công bố với toàn thế giới là, mô hình lò phản ứng hạt nhân thế hệ mới của họ sẽ thoát khỏi tư duy thiết kế của tất cả các thế hệ lò phản ứng hạt nhân cũ trước đây.
Đây mới thực sự là thế hệ lò phản ứng hạt nhân thứ 4, bước “đột phá” của nhân loại trong lĩnh vực phát triển công nghệ thiết kế, xây dựng các lò phản ứng hạt nhân.
NLVN
Kỳ 2: Mẫu thiết kế EM2 “đột phá” của công ty GA

Dẩu lửa - nguyên nhân tranh chấp chủ quyền biển đảo?



Phuchoiacquy - Biển Đông đang trở thành một vấn đề ngoại giao quan trọng, đặc biệt khi tăng trưởng kinh tế của Trung Quốc, kết hợp với nhu cầu năng lượng ngày một lớn, khiến nước này càng quyết liệt hơn trong các vấn đề ngoài biên giới của mình. Trung Quốc đã đưa ra tuyên bố chủ quyền đối với một khu vực rộng lớn trải dài từ Singapor và eo biển Malacca đến eo biển Đài Loan, chồng lấn nhiều vào các vùng thuộc chủ quyền của Việt Nam, Philippine, Malaysia và Brunei. Trong mấy thập niên trở lại đây, những mâu thuẫn này có lúc đã dẫn tới xung đột - thậm chí chiến tranh… các nhà phân tích tin rằng sẽ có thể còn xuất hiện nhiều những cuộc đụng độ hơn nữa trên Biển Đông. Vậy, dẩu lửa có phải là nguyên nhân dẫn đến tranh chấp chủ quyền biển đảo?

Vào đầu thế kỷ thứ 15, khi đô đốc Trịnh Hòa đi tàu vượt đại dương, ông phát hiện nhiều kho báu bất ngờ ở những vùng đất xa xôi như Ấn Độ, Iran, Indonesia và Somalia. Nhưng ông không biết cũng có những tài nguyên khổng lồ nằm ngay gần nước mình hơn, sâu dưới đáy biển, cách con tàu của ông hàng nghìn mét khi nó đi ngang qua Biển Đông, bắt đầu mỗi hành trình dài.
Ngày nay, một số nhà khoa học ước tính, Biển Đông, với diện tích 1,4 triệu dặm vuông (khoảng 3,5 triệu km2), lớn gấp hơn 5 lần diện tích nước Pháp, là nơi chứa đựng trữ lượng dầu khí có thể sánh ngang với bất kỳ trữ lượng lớn nhất ở nơi nào trên thế giới, mặc dù các ước tính còn nhiều khác biệt.
Không giống như thời Trịnh Hòa, lúc số tàu có thể đi viễn dương rất hiếm hoi, khu vực này ngày nay là nơi giao cắt của 1/3 số tuyến đường vận tại biển của thế giới, biến nó trở thành một hành lang chiến lược.
Biển Đông cũng đang trở thành một vấn đề ngoại giao quan trọng, đặc biệt khi tăng trưởng kinh tế của Trung Quốc, kết hợp với nhu cầu năng lượng ngày một lớn, khiến nước này càng quyết liệt hơn trong các vấn đề ngoài biên giới của mình.
Trung Quốc đưa ra tuyên bố chủ quyền đối với một khu vực rộng lớn trải dài từ Singapore và eo biển Malacca đến eo biển Đài Loan, chồng lấn nhiều vào các vùng thuộc chủ quyền của Việt Nam, Philippine, Malaysia và Brunei.
Trong mấy thập niên trở lại đây, những mâu thuẫn này có lúc đã dẫn tới xung đột - thậm chí chiến tranh - và các nhà phân tích tin rằng sẽ có thể còn xuất hiện nhiều những cuộc đụng độ hơn nữa trên Biển Đông.
Hoạt động thăm dò dầu khí tại những khu vực nước sâu trên Biển Đông, phía trên 1 thềm lục địa, cho đến nay vẫn diễn ra khá hạn chế, khiến các nhà địa chất còn nhiều bất đồng về tiềm năng trữ lượng tài nguyên tại đây có nhiều đến mức có thể làm gia tăng các tranh chấp ngoại giao hay không.
David Thompson, phụ trách thăm dò và khai thác khu vực châu Á của công ty tư vấn năng lượng và tài nguyên Wood Mackenzie, đặt vấn đề: "Một trong những thắc mắc chính trong tương lai của ngành kinh doanh dầu khí là tiềm năng Biển Đông lớn đến đâu?' Tại thời điểm này, chưa ai thực sự biết chính xác".
Theo ước tính của Bộ Đất đai và Tài nguyên Trung Quốc, các ước tính tiềm năng tài nguyên Biển Đông của Trung Quốc rất cao: hơn 4 tỷ tấn quy dầu (oil-equivalent) trong tất cả các vùng biển ngoài khơi của Trung Quốc, trong đó Biển Đông chiếm tỷ trọng cao nhất.
Phần lớn khối lượng đó là khí tự nhiên, và một ước tính của Trung Quốc cho rằng trữ lượng khí gas ở biển đông là khoảng 2.000 nghìn tỷ foot khối (khoảng 5.700 km3). Theo Cơ quan thông tin năng lượng Mỹ, khối lượng đó đủ đáp ứng nhu cầu khí gas của Trung Quốc trong hơn 400 năm nếu tính theo mức tiêu thụ năm 2011, mặc dù khối lượng có thể khai thác trên thực tế có thể thấp hơn con số trên.
Trung Quốc đang là nhà tiêu thụ năng lượng lớn nhất thế giới và nhập khẩu khối lượng ngày một lớn dầu mỏ và khí gas, do vậy vấn đề có bao nhiều dầu khí dưới đáy Biển Đông không phải là một câu hỏi vô nghĩa.
Bắc Kinh muốn đưa nước mình trở nên tự chủ hơn về năng lượng và trong vấn đề này đã khuyến khích phát triển các nguồn cung gần hơn, bao gồm thủy điện, năng lượng hạt nhân, phong điện và điện mặt trời. Giới phân tích cho rằng đây là một phần lý do giải thích tại sao CNOOC, công ty dầu khí hải dương lớn nhất Trung Quốc, đang đầu tư mạnh mẽ phát triển công nghệ khoan giếng nước sâu cần thiết để có thể khai thác tài nguyên tại khu vực nước này đang tranh chấp.
Giáo sư Lin Boqiang - Giám đốc Trung tâm Nghiên cứu kinh tế năng lượng tại Đại học Hạ Môn, phát biểu: "Trung Quốc cơ bản không có lựa chọn khác bởi nguồn tài nguyên của họ khá khan hiếm, vì thế trong tương lai, Trung Quốc sẽ phải hướng ra ngoài khơi. Một khi Trung Quốc bắt đầu tiến vào các vùng biển nước sâu tại Biển Đông, hoạt động thăm dò sẽ thực sự được tăng tốc thực hiện".
Tháng 5, công ty nhà nước này đã hạ thủy giàn khoan nước sâu tự tạo đầu tiên có tên CNOOC 981, cho phép CNOOC có thể tự tiến hành thăm dò độc lập, mà không cần phải thuê giàn khoan của nước ngoài.
CNOOC đặt mục tiêu khai thác 500 triệu thùng quy dầu mỗi ngày tại vùng nước sâu trên Biển Đông vào năm 2020 (hiện công việc khai thác vẫn chưa được tiến hành), và Zhong Hua, giám đốc tài chính của công ty niêm yết này, cho biết, giàn khoan 981 có thể giúp cải thiện khả năng thăm dò dầu khí của CNOOC.
"Nước sâu là mục tiêu chiến lược của công ty chúng tôi, và đây là nơi có tiềm năng và triển vọng rất lớn trong tương lai", ông phát biểu trước báo giới trong buổi công bố doanh thu quý vào ngày 24/10.
Mặc dù Trung Quốc vẫn chưa thăm dò dầu khí tại các vùng biển tranh chấp - hầu hết các giếng dầu hiện nay của CNOOC đều nằm ở các vùng nước nông gần Hồng Kông - nhưng CNOOC cũng tỏ ra quyết liệt trong việc xác định vị trí các lô thăm dò để đấu thầu với các công ty dầu khí nước ngoài.
Tháng 6, CNOOC đã mời thầu 9 lô dầu khí tại phía tây Biển Đông, khu vực thuộc chủ quyền của Việt Nam. Đây là động thái hết sức nguy hiểm, cho thấy CNOOC sẵn sàng dám phá vỡ các tập quán thông thường của mình là chỉ đấu thầu các lô tại các vùng biển không tranh chấp. Và dĩ nhiên, họ đã nhận được sự phản ứng giận dữ từ Bộ Ngoại giao Việt Nam, bởi những lô Trung Quốc đem đấu thầu hoàn toàn nằm trong vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam.
Bắc Kinh cũng đang gây áp lực lên một số công ty khoan dầu quốc tế hoạt động ở ngoài khơi Việt Nam và đòi họ phải ngừng các dự án thăm dò.
Ngoài những tranh chấp ngoại giao, vấn đề kinh tế liên quan đến việc khai thác cũng đóng một vai trò rất lớn trong việc phát triển các giếng dầu tại khu vực Trung Quốc đang nhòm ngó.
Biển Đông chứa nhiều các hẻm vực sâu và đá ngầm, khiến cho việc xây dựng các đường ống cần thiết để khai thác các mỏ khí tự nhiên trở nên rất khó khăn và tốn kém.
Một số nhà phân tích cũng đặt câu hỏi về khả năng khai thác trữ lượng dầu khí ấy hiệu quả về mặt kinh tế với mức giá năng lượng như hiện nay.
Zha Daojiong, một chuyên gia an ninh năng lượng tại Đại học Bắc Kinh, cho rằng, "chi phí khai thác dầu lên khỏi vùng biển này là quá cao".
Theo ông, dầu chỉ là "nhân tố ngoại vi" trong tranh chấp ngoại giao giữa các quốc gia có tuyên bố chủ quyền Biển Đông.
VietnamNet/VIFT

Thứ Ba, 6 tháng 11, 2012

Những "chiêu trò" năng lượng của ứng cử viên Tổng thống Mỹ Romney (Kỳ cuối)


Khi mà tất cả những gì gói gọn trong bản Kế hoạch của ông Romney có thể vắn tắt trong một vài ý sau: Tư nhân hóa đất đai của chính quyền Liên bang, chiếm các giếng dầu ngoài khơi, khai thác triệt để tài nguyên dự trữ, đẩy mạnh khoan dầu thủy lực, ô nhiễm môi trường và động đất. Nếu tất cả những điều trên là “Kế hoạch cho một tương lai của một nước Mỹ độc lập về năng lượng” thì có lẽ những cá nhân vốn trước kia ủng hộ Kế hoạch phát triển ngành năng lượng nước Mỹ của ông Romney, nên chăng cần phải sáng suốt cân nhắc lại quan điểm của mình…

Ông Romney không h
 đ cp gì đến mt trái ca phương pháp 
khoan d
u thy lc trong bn Kếhoch ca mình
Tính kh thi ca Hip đnh Đi tác Năng lượng Bc M
Liên quan đến Kế hoạch theo đuổi Hiệp định đối tác Năng lượng Bắc Mỹ của ông Romney, Thủ tướng Canada - ông Stephen Harper, đã bình luận như sau.
Ông không hề phản đối kế hoạch xây dựng Hiệp định đối tác Năng lượng Bắc Mỹ, nhưng việc ông Romney đặt kỳ vọng quá lớn, rằng Kế hoạch sẽ thay thế nguồn cung dầu thô từ các quốc gia OPEC bằng một nguồn cung ổn định và rẻ từ các thành viên ký kết Hiệp định, mà cụ thể là Canada và Mexico, là “điều không tưởng”.
Ngoài ra, Mexico, thành viên thứ 3 đóng vai trò cực kỳ quan trọng trong Kế hoạch của ông Romney, lại cho thấy họ không hề muốn gắn bó chặt chẽ với những cam kết của Hiệp định.
Thay vì chỉ chú trọng hoạt động mậu dịch dầu khí với các quốc gia ký kết Hiệp định, Mexico lại mở rộng quan hệ buôn bán với tất cả các quốc gia quan tâm đến nguồn tài nguyên dầu khí dồi dào của mình, nhằm tối đa hóa lợi ích thu được từ việc xuất khẩu dầu khí.
Theo báo cáo của Cơ quan Quản lý thông tin Năng lượng Mỹ (EIA), trong tháng 9/2011, có đến 3 quốc gia hàng ngày xuất khẩu hơn 1 triệu thùng dầu sang Mỹ.
Lượng dầu thô của riêng 5 quốc gia xuất khẩu dầu thô nhiều nhất sang Mỹ (top 5) đã chiếm 69% trên tổng lượng dầu thô Mỹ nhập khẩu mỗi ngày. Tỷ lệ này với 10 quốc gia xuất khẩu dầu thô nhiều nhất sang Mỹ (top 10) là 88%.
Top 5 quốc gia xuất khẩu dầu thô nhiều nhất sang Mỹ trong tháng 9/2011 là: Canada (2,3 triệu thùng dầu mỗi ngày), Ả Rập Xê Út (quốc gia OPEC - 1,46 triệu thùng dầu mỗi ngày), Mexico (1,09 triệu thùng dầu mỗi ngày), Venezuela (quốc gia OPEC - 0.759 triệu thùng dầu mỗi ngày), Nigeria (quốc gia OPEC - 0.529 triệu thùng dầu mỗi ngày).
5 quốc gia còn lại trong top 10 quốc gia xuất khẩu nhiều dầu thô nhất sang Mỹ tính vào thời điểm tháng 9/2011 là Colombia (0,51 triệu thùng dầu mỗi ngày), Iraq (quốc gia OPEC - 0,4 triệu thùng), Ecuador (quốc gia OPEC - 0,29 triệu thùng), Angola (quốc gia OPEC - 0,28 triệu thùng) và Nga (0,27 triệu thùng).
Nhìn từ số liệu ở trên thì cử tri Mỹ sẽ hoài nghi về tính khả thi của Kế hoạch xây dựng Hiệp định Đối tác Năng lượng Bắc Mỹ.
Tại sao Canada và Mexico (xếp vị trí đầu tiên và thứ 3 trong top 5) lại phải cam kết xuất khẩu dầu thô sang Mỹ với mức giá ưu đãi, nguồn cung phải được đảm bảo ổn định và ngày càng tăng lên để thay thế cho lượng dầu thô nhập khẩu từ các quốc gia trong khối OPEC?
Dầu thô thì đang trở nên ngày càng quý giá, và Mỹ dù có là quốc gia láng giềng thân cận với Canada và Mexico đi chăng nữa, thì hai quốc gia trên vẫn hoàn toàn có thể bị hấp dẫn bởi những lời đề nghị “như rót đường mật”, từ các quốc gia cách hẳn một đại dương và xa xôi như Trung Quốc, Nhật…
Còn nếu câu trả lời là “vì Canada và Mexico là đồng minh của Mỹ” thì lý lẽ trên sẽ không được thuyết phục cho lắm, đơn giản là ngay cả trong các quốc gia OPEC ở Trung Đông thì Ả-Rập Xê-Út và Iraq cũng là đồng minh khá thân cận của Mỹ.
Sau vụ khủng bố kinh hoàng vào nước Mỹ ngày 11/9/2001, chính quyền cựu tổng thống George W.Bush, đã cho thế giới thấy một chính sách chống khủng bố thẳng tay và hết sức cứng rắn.
Tại Diễn đàn Saban năm 2008, ông George W. Bush đưa ra tuyên bố đánh giá cao về vai trò các quốc gia đồng minh OPEC của Mỹ, trong cuộc chiến chống khủng bố.
Đặc biệt là Ả-Rập Xê Út - đứng thứ 2 trong top 10, đã tiêu diệt và bắt giữ hàng trăm phần tử khủng bố nguy hiểm. Còn Iraq - đứng thứ 6 trong top 10, từ vị trí kẻ thù trong quá khứ của Mỹ, đã trở thành một đồng minh có ý nghĩa chiến lược với Nhà trắng tại Trung Đông.
Vậy thì, động lực gì để Nhà Trắng phải sốt sắng “hợp thành một khối để thắt chặt hơn nữa mối quan hệ Bắc Mỹ” với Canada và Mexico, khi mà ngay trong các quốc gia Trung Đông, khu vực vốn là cái nôi của những phần tử chống đối Mỹ lại hiện diện đầy những kẻ “trung thành với Mỹ”.
Và liu bn có biết?
Hip đnh Đi tác Năng lượng Bc M s không th hoàn thành sm được.
Vì đơn giản là kế hoạch mở rộng Hệ thống đường ống dẫn dầu Keystone - Hệ thống đường ống dẫn dầu sẵn có giữa Mỹ và Canada, muốn hoàn thành theo đúng yêu cầu của Hiệp định thì phải đến năm 2025 hoặc đến năm 2030.
Chính quyền Liên bang Mỹ hiện không thể “toàn tâm, toàn ý” vào riêng kế hoạch phát triển hệ thống đường ống dẫn dầu giữa Mỹ và Canada được, vì Nhà Trắng còn đang lên kế hoạch phát triển đồng thời hàng loạt các đường ống dẫn dầu khác từ các quốc gia châu Mỹ và châu Á.
Dự trữ dầu khí dồi dào tại Mexico là điều không phải bàn cãi, nhưng quốc gia này lại không đủ khả năng để đẩy mạnh tiến trình khai thác dầu khí.
Số liệu các năm gần đây đều cho thấy, sản lượng khai thác dầu khí của các công ty quốc doanh Mexico đang suy giảm đáng kể.
Hệ quả là đầu năm 2011, chính quyền Mexico lần đầu tiên, kể từ thời điểm Mexico quốc hữu ngành dầu khí của quốc gia vào năm 1938, cho phép các công ty dầu khí nước ngoài vào khai thác tại 7 mỏ dầu khắp Mexico.
Nhưng các công ty nước ngoài chỉ được phép khai thác dầu khí, lượng dầu thô được khai thác sẽ phải bán lại cho riêng chính quyền Mexico.
Kế hoạch phát triển ngành năng lượng nước Mỹ của ông Romney không hề nhắc đến tiềm năng dầu khí dồi dào tại Tây bán cầu.
Ông Romney muốn đưa ngành năng lượng nước Mỹ thoát khỏi tầm ảnh hưởng của các quốc gia Trung Đông, bất chấp việc ngay ở trong khu vực này, cũng có quốc gia đồng minh thân cận với Mỹ như đã đề cập ở trên.
Tuy nhiên, tại sao thay vì đặt kỳ vọng quá nhiều vào Kế hoạch theo đuổi Hiệp định Đối tác Năng lượng Bắc Mỹ, ông Romney lại không đề xuất việc cải thiện quan hệ với các quốc gia châu Mỹ Latinh - những quốc gia vốn có trữ lượng dầu khí rất giàu có và khoảng cách địa lý đến Mỹ cũng tương đối gần?
Trong bản báo cáo thường niên của tổ chức OPEC vào năm 2010, tổ chức này đưa ra nhận định, Venezuela có trữ lượng dầu thô và khí gas lớn nhất khu vực Tây bán cầu, và đứng đầu trong các quốc gia thuộc khối OPEC.
Theo OPEC, trữ lượng dầu khí của Venezuela chiếm 24,8% tổng trữ lượng dầu khí của các quốc gia OPEC, con số này với Ả-Rập Xê-Út là 22,2%.
Tập đoàn dầu khí quốc doanh Petroleos de Venezuela S.A. (PDVSA) của Venezuela ước tính, trữ lượng dầu thô tại vành đai dầu Orinoco của quốc gia này lên tới khoảng 300 tỷ thùng.
Ngoài Venezuela ra, các quốc gia châu Mỹ Latinh khác như Ecuador và Brazil cũng có trữ lượng dầu khí rất dồi dào. Cải thiện và nâng tầm quan hệ với các quốc gia châu Mỹ Latinh sẽ giúp Mỹ bớt phụ thuộc vào nguồn cung dầu từ Trung Đông.
Theo Cơ quan quản lý thông tin Năng lượng Mỹ, năm 2010, Mỹ nhập khẩu ròng (nhập khẩu-xuất khẩu) khoảng 269,000 thùng dầu mỗi ngày.
Từ năm 2005, nền anh ninh năng lượng của Mỹ xấu đi trông thấy và Mỹ ngày càng phải nhập khẩu ròng thêm nhiều dầu thô.
Ông Romney cũng phớt lờ việc phát triển ngành năng lượng tái tạo và kế hoạch sử dụng năng lượng tiết kiệm, hiệu quả.
Trong khi ngành dầu khí ủng hộ mạnh mẽ ông Romney, thì ngành năng lượng tái tạo lại luôn sát cánh cùng ông Obama. Vì nguyên nhân trên mà mặc dù hiểu được tầm quan trọng của năng lượng tái tạo, nhưng ông Romney lại không hề nhắc đến vai trò của ngành năng lượng tái tạo trong bản Kế hoạch của mình.
Ông không hề muốn giành giật thêm sự ủng hộ từ ngành năng lượng tái tạo vốn trung thành với ông Obama, mà tập trung hẳn vào kế hoạch phát triển và tranh thủ sự ủng hộ từ ngành dầu khí Mỹ.
Chiến lược trên của ông Romney có thể coi là khá khôn ngoan trong giai đoạn tranh cử, nhưng xét về lâu dài, thì đây lại là một quyết định thiếu sáng suốt.
Ngành năng lượng tái tạo dù trước mắt vẫn còn tồn tại nhiều nhược điểm, nhưng khi khoa học công nghệ ngày càng phát triển, các ứng dụng trong ngành năng lượng tái tạo ngày càng năng suất, hiệu quả và tiện lợi hơn, thì vai trò của ngành lại rất có ý nghĩa với các cử tri Mỹ.
Một ví dụ điển hình là gần đây, trường đại học Cleveland State University của Mỹ đã phát triển thành công mô hình tuốc bin gió dạng xoắn ốc.
Mô hình tuốc bin gió mới này được cho là bước đột phá trong công nghệ khai thác năng lượng từ gió, lượng điện từ mô hình tuốc bin gió mới sinh ra nhiều gấp 4,5 lần so với các mẫu tuốc bin gió thông thường khác.
Cuối cùng, Kế hoạch của ông Romney đã tỏ ra quá “mù quáng” khi chỉ thiên về phát triển ngành dầu khí quá mức, mà không hề tính đến các thách thức kèm theo khác.
Nếu ông Romney muốn phát triển mạnh mẽ ngành dầu khí, thì việc “phương pháp khoan dầu thủy lực” được áp dụng thường xuyên sẽ là điều không thể tránh khỏi.
Tuy nhiên, những nghiên cứu gần đây cho thấy, phương pháp khoan dầu thủy lực có khả năng gây ra tình trạng mất ổn định tạm thời ở bề mặt vỏ trái đất và hệ quả là gây ra những trận động đất tại những vùng lân cận các giếng khoan sử dụng phương pháp này.
Một nhóm những nhà khoa học địa chất có uy tín thuộc trường Đại học Texas, Mỹ đã nghiên cứu và đưa đến kết luận rằng, hầu hết những trận động đất tại vùng Barnett Shale đều diễn ra khi cách đó vài dặm có một giếng dầu đã sử dụng phương pháp khoan dầu thủy lực.
Các nhà khoa học đưa ra cảnh báo rằng, “không phải tất cả các vụ động đất đều có nguyên nhân từ các vụ khoan dầu thủy lực, nhưng rõ ràng hầu hết các giếng dầu sử dụng phương pháp khoan dầu thủy lực đều có hiện tượng động đất kèm theo”.
Thông tin trên có thể coi là một mặt trái trong việc phát triển ngành dầu khí của nước Mỹ. Nhưng trong bản kế hoạch của mình, ông Romney lại không hề nhắc đến những thông tin và khả năng động đất kèm theo phương pháp khoan dầu thủy lực.
Nếu ông muốn lấy lòng cử tri Mỹ, thì nên chăng ông Romney cần phải đề cập chi tiết về vấn đề này, cũng như các biện pháp khắc phục và giảm nhẹ rủi ro của phương pháp này.
Ngoài ra, ông Romeny cũng không hề nhắc đến kế hoạch đối phó với những rủi ro khác trong ngành dầu khí, điển hình là vụ cháy nổ và tràn dầu tại giàn khoan Deepwater Horizon, khiến 11 công nhân bị thiệt mạng và khoảng 4,9 triệu thùng dầu tràn ra Vịnh Mexico.
Vậy liệu những cử tri Mỹ có nên ủng hộ Kế hoạch Phát triển ngành năng lượng nước Mỹ của ông Romney không?
Khi mà tất cả những gì gói gọn trong bản Kế hoạch của ông Romney có thể vắn tắt trong một vài ý sau: Tư nhân hóa đất đai của chính quyền Liên bang, chiếm các giếng dầu ngoài khơi, khai thác triệt để tài nguyên dự trữ, đẩy mạnh khoan dầu thủy lực, ô nhiễm môi trường và động đất.
Nếu tất cả những điều trên là “Kế hoạch cho một tương lai cho một nước Mỹ độc lập về năng lượng” thì có lẽ những cá nhân vốn trước kia ủng hộ Kế hoạch phát triển ngành năng lượng nước Mỹ của ông Romney, nên chăng cần phải sáng suốt cân nhắc lại quan điểm của mình.
NLVN