Thứ Ba, 23 tháng 10, 2012

PHỤC HỒI ẮC QUY XE Ô TÔ BẰNG CÔNG NGHỆ MỚI


Vai trò của ắc quy ô tô
Phục hồi ắc quy - Ắc quy là một trong những thiết bị quan trọng nhất trên xe ô tô.
Nó đảm nhiệm vai trò tích trữ điện năng, cung cấp năng lượng cho các thiết bị tiêu thụ điện (phụ tải) như máy khởi động, kích thích máy phát xoay chiều. Ắc quy sẽ cung cấp điện năng cho các phụ tải khi máy phát điện chưa làm việc hoặc vòng tua máy chưa đạt tốc độ quy định. Ngoài ra, nó còn có vai trò cung cấp điện năng trong trường hợp phụ tải sử dụng dòng vượt quá dòng định mức của máy phát.
Đối với một số loại ô tô hiện đại, nó là một nguồn bắt buộc dùng để tạo cao áp đánh lửa, thắng điện EABS, điều khiển, radar vận hành, định vị GPS và cấp nguồn cho các bộ phận thông minh.
Hạn chế của ắc quy ô tô
Đa số ắc quy sử dụng trên ôtô là ắc quy chì. Chúng được chia thành các loại như ắc quy hở (ắc quy nước) và ắc quy kín (hay còn gọi ắc quy khô). Ắc quy có bản cực càng dày thì tuổi thọ của nó càng cao.
So với ắc quy xe nâng điện ắc quy chì axít có tuổi thọ thấp hơn nhiều. Vì ắc quy khởi động ô tô có cần rất nhiều các bản cực mỏng để cung cấp càng nhiều năng lượng càng tốt trong một kích thích nhỏ gọn. Cũng vì thế mà bình ắc quy thường mắc nhiều lỗi kỹ thuật, hao mòn, hỏng hóc và gây tốn kém kinh phí.
Ngoài ra, còn do các nguyên nhân rung, lắc, nóng, lạnh và sunfat hóa bản cực nên chỉ có vài loại ắc quy ô tô có thể sử dụng được 6 năm trong điều kiện hoạt động bình thường.
Việc phục hồi bảo dưỡng cho ắc quy ô tô cũng không đơn giản nhất là đối với các loại ắc quy đã có “thâm niên” sử dụng
Ắc quy chì khi bị thải loại do kết tủa sulfat chì bên trong bản cực lại gây ô nhiễm nghiêm trọng cho môi trường và tác động tiêu cực tới sức khỏe con người. Tại Việt Nam hiện có hơn 20 hãng xe lớn nhỏ với mức cung từ 80.000 đến 120.000 chiếc mỗi năm. Nhu cầu thay mới, phục hồi bảo dưỡng cũng như thải loại ắc quy xe ô tô là rất lớn.
Bên cạnh đó, giá thành của ắc quy acit chì cũng ngày càng tăng cao do ảnh hưởng bởi giá chì và nhu cầu của các thị trường tiêu thụ lớn trên thế giới. Điều này làm cho việc mua mới hệ thống ắc quy gây không ít tốn kém.
Việc sử dụng, duy tu và phục hồi ắc quy sao cho lâu dài, vừa tiết kiệm chi phí đầu tư vừa bảo vệ môi trường vì thế đang nên vô cùng bức thiết.
PHỤC HỒI ẮC QUY BẰNG CÔNG NGHỆ
π POWERBATT THẦN TỐC
Thông qua sản phẩm Green PowerBatt Plus, công ty Cổ phần TT & CNTT Thần Tốc đã thử nghiệm và thực hiện thành công "Công nghệ phục hồi Ắc quy πPowerBatt" để đem đến cho người dùng một giải pháp tổng thể, chu toàn về năng lượng và hiệu quả, tiết kiệm cho chi phí đầu tư.
phục hồi ắc quy xe nâng điện
Công nghệ này đã được chứng minh trên thực tiễn tại các nước công nghiệp tiên tiến như Canada, Argentina, Autralia, Nga, Trung Quốc và một số nước lớn ở Đông, Tây Âu từ trên 20 năm nay.
Nền tảng của πPowerBatt là sử dụng công nghệ kết hợp giữa thiết bị điện tử tiên tiến với hóa chất phục hồi thân thiện.
Green PowerBatt Plus chứa thành phần hóa chất thân thiện môi trường, không gây hại cho người sử dụng, giúp giảm cường độ sản xuất và năng lượng tiêu thụ, giảm rác thải và sự phát xạ nhiệt.
Các kết quả nghiên cứu độc lập cho thấy phương pháp nạp điện xung động vẫn có tác dụng nhưng không hiệu quả bằng phục hồi bằng πPowerBatt.
Đối với các ắc quy bị yếu dung lượng
  • Tăng cường tuổi thọ và tái tạo lại dung lượng lưu trữ cho bình.
Quá trình phục hồi thông thường mất khoảng 3 ngày và hoàn toàn tự động.
πPowerBatt giúp giảm sự khác biệt về dung lượng giữa ắc quy cũ và mới khi thay đổi các ắc quy bị hư hỏng.
  • Ngăn ngừa sự tổn thất dung lượng
Thành phần dung dịch điện phân trong công nghệ πPowerBatt giúp ngăn ngừa sự kết tủa chì sunfat.
Việc phục hồi không gây tổn hại cho bình.
Các bản điện cực được phục hồi không những làm gia tăng dung lượng bình mà còn phục hồi lại dung lượng ban đầu của bình.
Đối với các ắc quy đoản mạch có số lượng hạt hoạt động bị mịn giữa các điện cực đều có thể phục hồi được.
phục hồi ắc quy xe nâng điện
Các ắc quy được phục hồi có dung lượng đạt tới 120% dung lượng danh định của bình.
Thời gian phóng tối đa với dòng điện cao ở nhiệt độ tới hạn -18o C tăng lên rõ rệt.
Đối với các ắc quy đã chết, thường là các ắc quy không nạp được nữa, Green Power Batt Plus đều phục hồi lại trong hầu hết các trường hợp.
Về mặt chi phí, công nghệ πPowerBat giúp:
-   Chu kỳ nạp ít, thời gian nạp ngắn, giảm tiêu thụ điện
-   Giảm lần chết bình.
-   Kéo dài tuổi thọ đặc trưng của bình từ 5 năm lên hơn 50% nữa. Việc mua một bình ắc quy mới là chuyện vài năm sau nữa.
Viện giám định và kỹ thuật quân đội Slovakei đã tiến hành kiểm tra 10 ắc quy được phục hồi khác nhau trong khoản thời gian từ tháng 11 năm 2003 đến tháng 4 năm 2004. Các ắc quy được phục hồi đều đạt 89 – 124% dung lượng danh định của bình. Đối với các ắc quy không nạp được hòan tòan hoặc một phần, sau khi được phục hồi đã đạt từ 94,1 – 115,8% dung lượng danh định của bình. Trong thời gian thử nghiệm kéo dài 5 tháng, các ắc quy được phục hồi đều không có hao hụt về dung lượng.
Với kinh nghiệm đã thực hiện nhiều dự án lớn từ ắc quy viễn thông, ắc quy xe ô tô, ắc quy xe đạp điện… của các hãng ắc quy hàng đầu thế giới như Narada, Haze, Fiam, Phoenix, Vitalize, Yusaka, Hagen... trong thời gian gần đây, chúng tôi tin tưởng Công nghệ phục hồi πPowerBatt cho ắc quy nâng điện sẽ hoàn toàn đáp ứng và làm thỏa mãn mọi nhu cầu của quý vị.
Chúng tôi sẵn sàng tư vấn, khảo sát, lập phương án cho Quý công ty triển khai một cách đồng bộ, hiệu quả với chi phí thấp nhất.
Dịch vụ này bao gồm

• Phục hồi các ắc quy đã chết hẳn
• Giám sát và bảo dưỡng, duy tu ắc quy.
• Cung cấp dịch vụ ngăn ngừa ắc quy lão hóa.
• Công ty chúng tôi cung cấp đến cho khách hàng công nghệ Phục hồi ắc quy bị thải loại do kết tủa sulfat, kéo dài tuổi thọ ắc quy, làm mới ắc quy cũ, cung cấp dịch vụ bảo dưỡng và bảo trì ắc quy, thực hiện các bước chuẩn đoán để phát hiện nguyên nhân sự cố hỏng hóc của các loại ắc quy sử dụng trong các lĩnh vực khác nhau.
Công nghệ phục hồi ắc quy của Thần Tốc chuyên nghiệp, tự động và bán tự động linh động với giá thành tốt nhất , tiết kiệm tối đa cho doanh nghiệp
Với phương châm "Bảo đảm năng lượng Việt Nam", chúng tôi mong muốn được hợp tác với Quý công ty thông qua việc phục hồi các sản phẩm ắc quy mà Quý công ty đã và đang sử dụng.
Thần Tốc

Chiến tranh năng lượng hay những điểm nóng trong kỷ nguyên địa - năng lượng? (Kỳ 4)


Theo công ty năng lượng khổng lồ British Petroleum hay BP, khu lòng chảo Caspian có một trữ lượng dầu lên đến 48 tỉ thùng (phần lớn dưới lòng đất Azerbaijan và Kazakhstan) và 449 nghìn tỉ cubic feet hơi đốt thiên nhiên (với số trữ lượng lớn nhất thuộc Turkmenistan). Do đó, vùng lòng chảo Caspian đã vượt qua Bắc và Nam Mỹ về trữ lượng hơi đốt và châu Á về trữ lượng dầu.

Vùng lòng chảo Caspian
Lòng chảo Caspian là một vịnh nhỏ bao quanh bởi Liên Bang Nga, Iran, và ba Cộng hòa trong USSR trước đây (Azerbaijan, Kazakhstan, và Turkmenistan).
Trong cùng khu vực còn có các nước Cộng hòa Xô Viết cũ như: Armenia, Georgia, Kyrgystan, và Tajikistan.
Tất cả các Cộng hòa Xô Viết nói trên, tuy khác nhau về trình độ, luôn tìm cách xác định chủ quyền tối thượng của mình đối với Điện Cremlin (Nga) và thiết lập những quan hệ độc lập đối với Hoa Kỳ, Liên hiệp châu Âu, Iran, Turkey, và Tung Quốc.
Tất cả đều đang phải đối đầu với chia rẽ nội bộ hay tranh chấp biên giới với các nước láng giềng. Vì vây, toàn khu vực, luôn ở trong tình trạng một thùng thuốc nổ với tiềm năng bộc phá, ngay cả trước đây, khi chưa phải là một trong những vùng có trữ lượng dầu và hơi đốt lớn lao chưa được khai thác đầy đủ để tình hình có thể dễ dàng sôi bỏng.
Trong thực tế, đây không phải lần đầu vùng lòng chảo Caspian được xem như khu vực có trữ lượng dầu quan trọng, và vì vậy, tiềm năng xung đột cao.
Vào cuối thế kỷ 19, khu vực chung quanh thành phố Baku - lúc đó một phần của đế quốc Nga, hiện nay thuộc Azerbaijan là một vùng dầu lửa phong phú, và vì vậy, một "phần thưởng chiến lược" quan trọng. Theo đó, Nhà độc tài Xô Viết tương lai, Joseph Stalin, khởi đầu đã gầy dựng được thanh thế như một lãnh tụ các công nhân dầu lửa đấu tranh; và Hitler đã tìm cách chinh phục trong cuộc xâm lăng Liên Bang Xô Viết bất thành năm 1941.
Tuy nhiên, sau Chiến tranh thế giới lần thứ 2, khu vực này đã không còn quan trọng như một khu vực giàu năng lượng, khi các khu dầu Baku trên đất liền đã cạn kiệt.
Ngày nay, nhiều trữ lượng mới và quan trọng đã được khám phá ngoài khơi vùng biển Caspian và trong nhiều khu vực thuộc Kazakhstan và Turkmenistan, trước đây chưa được khai thác.
Theo công ty năng lượng khổng lồ British Petroleum hay BP, khu lòng chảo Caspian có một trữ lượng dầu lên đến 48 tỉ thùng (phần lớn dưới lòng đất Azerbaijan và Kazakhstan) và 449 nghìn tỉ cubic feet hơi đốt thiên nhiên (với số trữ lượng lớn nhất thuộc Turkmenistan). Do đó, vùng lòng chảo Caspian đã vượt qua Bắc và Nam Mỹ về trữ lượng hơi đốt và châu Á về trữ lượng dầu.
Tuy nhiên, khai thác toàn bộ số trữ lượng này và vận chuyển đến các thị trường nước ngoài đã là một công cuộc vĩ đại. Hạ tầng cơ sở năng lượng trong vùng hết sức hiếm hoi và vùng vịnh Caspian cũng chẳng có hải cảng, do đó, dầu và hơi đốt phải được vận chuyển bằng hệ thống ống dẫn dầu.
Liên Bang Nga, từ lâu là đại cường áp đảo trong vùng, đang tìm cách kiểm soát các hệ thống ống dẫn dầu và hơi đốt từ vùng lòng chảo Caspian đến các thị trường tiêu thụ. Nga đang nâng cấp hệ thống ống dẫn dầu thời Xô Viết kết nối các Cộng hòa Xô Viết trước đây với Liên Bang Nga, thiết lập các tuyến dẫn dầu mới, và gần như hoàn toàn nắm độc quyền khâu phân phối toàn bộ số năng lượng từ Vịnh Caspian, qua mạng lưới ngoại giao truyền thống, các chiến thuật mạnh tay, hoặc công khai hối lộ giới lãnh đạo trong khu vực (đa số một thời đã phục vụ trong guồng máy hành chính Liên Xô), buộc phải chuyên chở năng lượng qua Liên Bang Nga.
Theo Michael Klare, tác giả cuốn Rising Powers, Shrinking Planet, Hoa Kỳ đã tìm cách ngăn ngừa các nỗ lực trên, thông qua việc bảo trợ xây cất các hệ thống ống dẫn dầu thay thế, tránh đi qua lãnh thổ Nga, băng qua Azerbaijan, Georgia, và Turkey đến Địa Trung Hải (nhất là hệ thống BTC, hay Baku-Tbilisi-Ceyhan pipeline).
Trong khi đó, Bắc Kinh đang xây hệ thống ống dẫn dầu riêng của mình nối liền vùng Caspian với miền Tây Trung Quốc.
Tất cả các hệ thống ống dẫn dầu trên đây đều đi ngang qua những khu vực sắc tộc thiếu an ninh và gần nhiều vùng đang tranh chấp như: Chechnya bạo loạn và South Ossetia ly khai. Vì vậy, cả Trung Quốc và Hoa Kỳ đều phải phối hợp cơ chế vận hành hệ thống ống dẫn dầu với viện trợ quân sự cho các quốc gia dọc lộ trình.
Lo ngại sự hiện diện của Hoa Kỳ, cả về quân sự lẫn kinh tế, trong các lãnh thổ thuộc Liên Xô trước đây, Liên Bang Nga đã đáp lại với những thao tác quân sự của riêng mình, kể cả cuộc chiến ngắn ngũi với Georgia trong năm 2008, dọc theo tuyến đường BTC.
Với kích cỡ các trữ lượng dầu và hơi đốt của vùng lòng chảo Caspian, nhiều xí nghiệp năng lượng đang hoạch định các thao tác sản xuất cùng với các ống dẫn dầu cần thiết để chuyển tải dầu và hơi đốt đến thị trường. Chẳng hạn, Liên minh châu Âu hy vọng sẽ xây một tuyến ống dẫn hơi đốt thiên nhiên mới, với tên gọi Nabuco từ Azerbaijan xuyên qua Turkey đến Austria. Và Liên Bang Nga đã đề nghị dự án một hệ thống cạnh tranh - South Stream.
Tất cả các nỗ lực trên đây đều liên quan đến các quyền lợi địa - chính trị của các đại cường, do đó, chắc sẽ luôn là nguồn cội của nhiều khủng hoảng và xung đột quốc tế.
Trong kỷ nguyên địa năng lượng mới, Eo Bể Hormuz, Biển Nam Hải, và Vùng Lòng Chảo Caspian không hề đứng riêng lẻ như những điểm nóng tiềm tàng. Biển Đông Hải, nơi Trung Quốc và Nhật Bản đang tranh chấp những khu dự trữ hơi đốt thiên nhiên, là một điểm nóng khác, cũng như vùng bể chung quanh Falkland Islands, nơi Anh Quốc và Argentina đang tranh giành các trữ lượng dầu dưới lòng đất; và vùng Bắc Cực với hiện tượng hâm nóng toàn cầu và các tài nguyên năng lượng nhiều quốc gia đang tranh chấp.
Trong mọi trường hợp, một điều chắc chắn: bất cứ ở đâu có nhiều tài nguyên năng lượng, ở đó nguy cơ chiến tranh luôn cận kề.
Vietsciences.free.fr
>> Kỳ cuối: Năng lượng và chiến lược mới

Nước biển có thể sản xuất năng lượng hạt nhân?



Theo Hội Hóa học Hoa Kỳ, ước tính có ít nhất khoảng 4 tỷ tấn urani trong nước biển và nước biển có thể góp phần tăng sản lượng năng lượng hạt nhân. Đây là ý tưởng được trình bày tại Hội nghị và triển lãm quốc gia Hoa Kỳ lần thứ 244 ở Philadelphia.
Tiến sĩ Robin D. Rogers, tác giả của nghiên cứu này cho biết, đại dương là nguồn trữ urani lớn hơn tất cả những mỏ urani trên cạn có thể khai thác được. Vấn đề ở chỗ, nồng độ chất này rất thấp nên chi phí chiết xuất sẽ cao.
Phân tích kinh tế của Tiến sỹ Erich Schneider cho Bộ Năng lượng Hoa Kỳ (DOE) so sánh, khai thác urani từ nước biển với các phương pháp khai thác quặng urani cho thấy, các kỹ thuật được DOE tài trợ có thể khai thác lượng urani nhiều gấp 2 lần so với sản lượng ở Nhật Bản vào cuối thập niên 90. Vì vậy, chi phí sản xuất sẽ giảm đi gần 50% so với công nghệ của Nhật Bản.
Tuy vậy, chiết xuất urani từ nước biển vẫn đắt hơn nhiều so với khai thác quặng. Cũng theo TS. Schneider, hiện không chắc chắn được về trữ lượng urani trên cạn nên khó có thể lập kế hoạch sản xuất dài hạn. Vì vậy, nếu khai thác urani từ nước biển thì sẽ khắc phục được hạn chế này, đồng thời còn giảm một số tổn thất môi trường mà khai thác quặng gây ra như nước thải.
Sản xuất năng lượng hạt nhân từ Urani trong nước biển đã được các nhà khoa học nghiên cứu hơn 40 năm này, và sắp cho kết quả khả thi?
Thiennhien

Lãng phí năng lượng chủ yếu từ hệ thống điều hòa


Theo kết quả khảo sát mới đây của Bộ Xây dựng kết hợp với hai Trung tâm Tiết kiệm năng lượng (TKNL) Hà Nội và Tp. Hồ Chí Minh cho thấy, đối với trụ sở cơ quan hành chính, thiết bị sử dụng nhiều năng lượng là điều hòa không khí chiếm trên 70% tổng năng lượng; đèn chiếu sáng chiếm 10%; các thiết bị khác như máy móc văn phòng, thang máy, máy bơm nước chiếm khoảng 20%.

Đối với trung tâm thương mại, siêu thị, 75% năng lượng được tiêu tốn bởi điều hòa không khí; 10% là thiết bị chiếu sáng, các thiết bị khác chiếm 15%. Đối với khách sạn, các con số này lần lượt là 60%, 25% và 15%…
Có thể thấy, nguyên nhân của tình trạng lãng phí hiện nay ở các tòa nhà xây dựng là do việc lắp đặt hệ thống điều hòa không khí không phù hợp, không vệ sinh, bảo dưỡng định kỳ; lớp vỏ công trình có thiết kế và vật liệu không đảm bảo yêu cầu tiết kiệm năng lượng…
Ngoài ra, việc thiếu ý thức cũng như những hiểu biết trong việc sử dụng năng lượng tiết kiệm, hiệu quả lại được nhắc đến như một trong những nguyên nhân cơ bản làm hạn chế hiệu quả các chương trình tiết kiệm năng lượng.
Theo Vụ Khoa học và Công nghệ, Bộ Xây dựng, từ thực trạng các công trình xây dựng, nếu các công trình xây dựng áp dụng đồng bộ các giải pháp thiết kế kiến trúc, sử dụng các vật liệu tiết kiệm năng lượng, lắp đặt và vận hành các thiết bị có hiệu suất năng lượng cao, có cán bộ quản lý năng lượng đủ trình độ, tận dụng không gian, ánh sáng tự nhiên… sẽ có thể tiết kiệm từ 30 - 40% năng lượng tiêu thụ.
Đối với các công trình đang hoạt động hoặc sắp cải tạo, nếu tiến hành kiểm toán năng lượng và sau đó triển khai các giải pháp tiết kiệm năng lượng cũng có thể tiết kiệm từ 15 - 25%.
Bên cạnh đó, hiệu quả tiết kiệm năng lượng trong các công trình xây dựng còn hạn chế, một phần nguyên nhân từ việc nhiều chủ đầu tư, doanh nghiệp tư vấn, thiết kế phớt lờ Quy chế xây dựng (QCXD) 09:2005 cũng như các quy định về tiết kiệm năng lượng trong công trình xây dựng.
Tuy nhiên, theo các chuyên gia đánh giá, thực tế về mặt kỹ thuật, bản QCXD 09:2005 dùng quá nhiều công thức phức tạp, gây không ít khó khăn trong việc triển khai, kiểm tra, giám sát các công trình xây dựng.
Giải quyết bài toán tiết kiệm năng lượng không chỉ giúp các công trình giảm điện năng tiêu thụ mà còn tăng chất lượng sống, tiệm cận dần những tiêu chuẩn thiết kế của thế giới. Đó là lý do vì sao hiệu quả của tiết kiệm năng lượng vẫn sẽ là đòi hỏi mà các công trình xây dựng luôn phải tính tới.
VNEEP

Luật Điện lực Việt Nam 'nóng' với thủy điện và phát điện cạnh tranh!


Chiều 23/10, dưới sự điều hành của Phó Chủ tịch Nguyễn Thị Kim Ngân, Quốc hội họp tại Hội trường lấy ý kiến đóng góp vào Luật Điện lực (sửa đổi). 21 ý kiến của các Đại biểu được đánh giá là đúng và trúng đối với bản Dự thảo sửa đổi bộ Luật.

Luật Điện lực được Quốc hội khóa XI, kỳ họp thứ 6 thông qua ngày 03/12/2004 và có hiệu lực từ ngày 01/7/2005, đã tạo hành lang pháp lý quan trọng cho các tổ chức, cá nhân thực hiện hoạt động điện lực và sử dụng điện. Luật góp phần khẳng định vai trò của điện lực trong sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, cải thiện và nâng cao đời sống nhân dân, thúc đẩy quá trình hội nhập khu vực và quốc tế. Tuy nhiên, qua gần 7 năm việc thực hiện, bên cạnh những kết quả đạt được, Luật Điện lực cũng đã bộc lộ không ít những vấn đề chưa phù hợp, nảy sinh nhiều vướng mắc trong triển khai, thi hành như về giá điện, về quy hoạch phát triển điện lực, về an toàn điện lực v.v…

Tập đoàn Dầu khí Việt Nam được đánh giá cao trong công tác tham gia thị trường phát điện, góp phần đảm bảo an ninh năng lượng cho đất nước
Trước thực trạng này, Dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Điện lực đã được soạn thảo chuẩn bị và trình Quốc hội cho ý kiến tại kỳ họp thứ 3, Quốc hội khóa XIII vừa qua. Đồng thời Ban soạn thảo tiếp tục thu thập những thông tin khoa học, khách quan và mang tính phản biện phục vụ việc nghiên cứu tiếp thu, chỉnh lý dự thảo Luật, tiếp tục trình Quốc hội kỳ họp này.
Trong phiên họp toàn thể chiều nay, đại đa số các đại biểu đều nhất trí với việc cần thiết phải sửa đổi, bổ sung một số Điều của Luật nhằm đáp ứng với tình hình thực tiễn hiện tại. Đối với dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số Điều của Luật Điện lực, Ban soạn thảo đã tổng hợp được 15 ý kiến với 46 vấn đề, tập trung vào các Điều 8, 9, 11, 29, 30, 31 và Điều 66, với các nội dung cơ bản như: Về tính kết nối và phân loại của Quy hoạch phát triển điện lực, việc đầu tư phát triển điện lực ngoài quy hoạch; Về hình thành và phát triển thị trường điện lực cần có quy định về tái cơ cấu ngành điện trong dự thảo Luật.
Đại biểu Đỗ Văn Vẻ (Thái Bình) cho rằng thời điểm phát điện cạnh tranh năm 2022 là hơi muộn. “Nên chăng chúng ta nên tính, có thể 2019 hoặc 2020, bởi điều này cũng phù hợp với lộ trình tái cơ cấu ngành điện, đảm bảo sự minh bạch, cạnh tranh về giá điện”, Đại biểu Đỗ Văn Vẻ phát biểu.
Đại biểu Nguyễn Đức Kiên (Sóc Trăng) lại cho rằng, về chính sách giá bán điện, giá điện và các loại phí và nội dung điều tiết hoạt động điện lực, các đại biểu cho rằng nên công khai, minh bạch cơ cấu hình thành giá điện. Bên cạnh đó, Nhà nước cần cấp kinh phí và hỗ trợ lãi suất khi vay vốn ngân hàng để đầu tư phát triển điện cho vùng sâu, vùng xa, miền núi, hải đảo. Đồng thời, bỏ quy định bù chéo giá điện sản xuất, giá điện sinh hoạt và bù giá giữa các nhóm khách hàng, sửa đổi giá điện theo cơ chế thị trường và bù giá cho các đối tượng người nghèo, người có thu nhập thấp.
Dẫn chứng một số quốc gia trên thế giới, đại biểu Huỳnh Văn Tính (Tiền Giang) lưu ý, Dự thảo Luật sửa đổi nên bổ sung quy định định kỳ rà soát, bổ sung, điều chỉnh quy hoạch 5 năm một lần, gắn với kế hoạch chung của đất nước, địa phương và nếu có thể, nên có chương trình chi tiết cụ thể cho từng năm để đảm bảo triển khai thực hiện quy hoạch có kết quả, chất lượng.
Theo chương trình, ngày 20/11, Quốc hội sẽ biểu quyết thông qua dự luật này.
Theo PTT

Nhà máy lọc dầu Vũng Rô sẽ chuyển về KCN Hòa Tâm


Một góc vịnh Vũng Rô, nơi từng được dự kiến sẽ xây dựng nhà máy lọc dầu (Ảnh: thantoc.com.vn)
Trong công văn gửi Bộ Kế hoạch và Đầu tư mới đây, Bộ Xây dựng đã điều chỉnh quy mô, công suất và địa điểm xây dựng nhà máy lọc dầu Vũng Rô (tỉnh Phú Yên).
Cụ thể, công suất nhà máy được điều chỉnh từ 4 triệu tấn dầu thô/năm lên 8 triệu tấn dầu thô/năm, địa điểm xây dựng được chuyển từ làng Thượng (huyện Đông Hòa) về Khu công nghiệp Hòa Tâm thuộc khu kinh tế Nam Phú Yên.
Bộ Xây dựng cũng đề nghị UBND tỉnh Phú Yên, Công ty Technostar Management Ltd, British Virgin Islands làm rõ phương án xử lý khu đất dự án cũ (185,1 ha) tại làng Thượng trước khi chuyển sang địa điểm đầu tư mới, đảm bảo phù hợp với quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất đã được phê duyệt.
Dự án lọc dầu Vũng Rô được UBND tỉnh Phú Yên cấp giấy chứng nhận đầu tư dự từ tháng 11/2007, do Công ty Technostar Management (Anh) và Công ty Telloil (Nga) liên doanh hợp tác đầu tư với tổng vốn đã điều chỉnh dự kiến gần 3,2 tỷ USD.
Theo kế hoạch, trong giai đoạn 1, nhà máy máy sẽ có công suất 4 triệu tấn/năm với các loại sản phẩm benzen, xăng cao cấp, nhiên liệu phản lực, diesel, polypropylen và lưu huỳnh… với doanh thu hàng năm khoảng 2,23 tỷ USD, đóng góp cho địa phương 100 triệu USD/năm – Báo điện tử – Thời báo Kinh tế Việt Nam ngày 22/10 đưa tin.
Theo Thiennhien

Hệ thống quản l‎ý năng lượng ISO 50001



Trong những năm gần đây, năng lượng đang trở thành vấn đề được quan tâm trên toàn thế giới. Bên cạnh các loại năng lượng sạch đang được phát triển và phổ biến, quản lý sử dụng năng lượng hiệu quả đang là một trong những xu thế của tất cả các ngành nghề. Tổ chức phát triển công nghiệp của liên hợp quốc, UNIDO cũng chỉ ra rằng, ngành công nghiệp cần thể hiện một nỗ lực rõ ràng trong việc ngăn cản biến đổi khí hậu. Từ những yêu cầu đó, Tổ chức Tiêu chuẩn hóa quốc tế (ISO) đã ban hành tiêu chuẩn ISO 50001, Hệ thống quản lý năng lượng - các yêu cầu và hướng dẫn thực hiện vào tháng 6 năm 2011.
ISO 50001 quy định các yêu cầu đối với hệ thống quản lý năng lượng (HTQLNL - EnMS), giúp các tổ chức/doanh nghiệp có những cải tiến liên tục trong việc quản lý sử dụng năng lượng hiệu quả. Việc áp dụng rộng rãi tiêu chuẩn này được dự đoán sẽ tác động lên 60% lượng năng lượng tiêu thụ trên thế giới.
Tại Việt Nam, Luật sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả được ban hành tháng 6 năm 2010, yêu cầu các tổ chức, doanh nghiệp có kế hoạch sử dụng năng lượng hiệu quả tiết kiệm, đồng thời yêu cầu các tổ chức tiến hành lồng ghép chương trình quản lý năng lượng với các chương trình quản lý chất lượng, chương trình sản xuất sạch hơn, chương trình bảo vệ môi trường của cơ sở.
Đối tượng áp dụng
Cũng như các tiêu chuẩn hệ thống quản lý ISO khác, ISO 50001 được thiết kế phù hợp để áp dụng cho mọi loại hình tổ chức, không phụ thuộc quy mô hay hoạt động, nhà nước hay tư nhân, bất kể vị trí địa l‎ý. ISO 50001 không cố định các mục tiêu cải tiến trong hiệu quả sử dụng năng lượng. Các mục tiêu được thiết lập tùy thuộc vào tổ chức sử dụng hay các quy định pháp luật liên quan. Điều này có nghĩa, mọi tổ chức đều có thể áp dụng ISO 50001 để xây dựng các mục tiêu năng lượng phù hợp với loại hình cũng như năng lực của tổ chức.
Lợi ích
Năng lượng có thể coi như một thông số thể hiện sự vận hành của tổ chức và là một trong những chi phí chính mà tổ chức phải chi trả trong quá trình hoạt động. Bên cạnh đó, việc sử dụng năng lượng còn đưa đến những chi phí về môi trường cũng như xã hội với việc làm cạn kiệt nguồn tài nguyên và gây biến đổi khí hậu.
Việc phát triển và ứng dụng công nghệ phù hợp với những nguồn năng lượng tái tạo hay năng lượng mới đòi hỏi nhiều thời gian. Mặt khác, một tổ chức không thể điều khiển giá năng lượng, các chính sách của nhà nước hay nền kinh tế thế giới. Tuy nhiên, tổ chức có thể kiểm soát và cải tiến hiệu quả sử dụng năng lượng của mình để đem lại những lợi ích nhanh chóng cũng như lâu dài. Việc tăng hiệu quả sử dụng năng lượng giúp cho tổ chức giảm lượng năng lượng tiêu thụ và chi phí sản xuất. Bên cạnh lợi ích về kinh tế, việc quản lý sử dụng năng lượng hiệu quả của tổ chức còn là đóng góp tích cực cho việc bảo tồn tài nguyên thiên nhiên và giảm thiểu những tác động toàn cầu của việc sử dụng năng lượng.
Tiêu chuẩn này được xây dựng giúp các tổ chức có thể tích hợp việc quản lý và cải tiến hiệu quả sử dụng năng lượng vào trong hệ thống quản lý của mình. Tiêu chuẩn này được xây dựng nhằm hoàn thành các mục đích sau:
Hỗ trợ các tổ chức nâng cao hiệu quả sử dụng các thiết bị tiêu thụ năng lượng.
Tạo môi trường trao đổi thông tin thuận tiện và minh bạch trong việc quản lý nguồn năng lượng.
Thúc đẩy các thực hành tốt trong quản lý năng lượng và nhân rộng những hành động quản lý năng lượng tốt.
Hỗ trợ trong việc đánh giá và xếp hạng ưu tiên trong việc ứng dụng các công nghệ tiết kiệm năng lượng mới.
Đưa ra khung chương trình cho việc thúc đẩy hiệu quả năng lượng thông qua chuỗi cung ứng.
Đơn giản hóa các cải tiến trong hệ thống quản lý năng lượng phục vụ cho các dự án giảm thiểu khí thải nhà kính.
Cho phép tích hợp với các hệ thống quản lý khác như, hệ thống quản lý chất lượng, môi trường, an toàn lao động.
Các bước triển khai
Tương tự như các tiêu chuẩn hệ thống quản lý khác của tổ chức ISO, ISO 50001 được xây dựng dựa theo chu trình PDCA (plan - do - check - act) với các bước lập kế hoạch, thực hiện, kiểm tra và cải tiến. Điều này đảm bảo cho hệ thống quản lý năng lượng của tổ chức được liên tục cải tiến ngày một hoàn thiện hơn. Đây cũng là điều kiện thuận lợi để tổ chức có thể tích hợp HTQLNL vào các hệ thống quản lý sẵn có của mình. Các bước triển khai HTQLNL được mô tả trong sơ đồ sau:
Bước 1: Xây dựng chính sách năng lượng
Chính sách năng lượng là kim chỉ nam cho việc áp dụng và cải tiến hệ thống quản lý năng lượng của tổ chức sao cho tổ chức có thể cải tiến hiệu quả sử dụng năng lượng của mình. Chính sách cần phản ánh sự cam kết của lãnh đạo cao nhất về việc tuân thủ theo các yêu cầu của luật pháp và các yêu cầu khác được áp dụng, cam kết nâng cao hiệu quả sử dụng năng lượng và không ngừng cải tiến. Đây là bước đầu tiên và là nền tảng để xây dựng và thực hiện HTQLNL. Chính sách năng lượng phải được xem xét thường xuyên để đảm bảo hệ thống được thực hiện và đầy đủ.
Bước 2: Lập kế hoạch về quản lý năng lượng
Đây là bước cơ bản trong việc xây dựng HTQLNL. Các công việc cần thực hiện trong giai đoạn này bao gồm:
Xác định các yêu cầu pháp luật và các yêu cầu khác về năng lượng mà tổ chức/doanh nghiệp phải tuân thủ, các yêu cầu này có thể bao gồm: các yêu cầu pháp luật của quốc tế, quốc gia; các yêu cầu pháp luật của khu vực/tỉnh/ngành; các yêu cầu pháp luật của chính quyền địa phương.
Xem xét việc sử dụng năng lượng nhằm xác định hiện trạng sử dụng năng lượng của tổ chức, từ đó đánh giá và xác định những công đoạn tiêu thụ năng lượng đáng kể nhằm tìm ra những cơ hội cải tiến.
Dựa trên kết quả của việc xem xét sử dụng năng lượng để xác định chỉ thị về hiệu suất năng lượng và đường cong sử dụng năng lượng. Chỉ số hiệu suất năng lượng và đường cong sử dụng năng lượng sẽ là thước đo độ hiệu quả của việc cải tiến HTQLNL.
Thiết lập mục tiêu, chỉ tiêu và chương trình quản lý năng lượng. Mỗi chương trình cần mô tả cách thức để tổ chức đạt được các mục tiêu và chỉ tiêu của mình, bao gồm cả thời gian, các nguồn lực cần thiết và người chịu trách nhiệm thực hiện các chương trình này.
Bước 3. Thực hiện và điều hành
Đây là giai đoạn đưa HTQLNL vào hoạt động. Những thông tin đầu ra của bước lập kế hoạch sẽ được sử dụng trong việc thực hiện và điều hành. Các công việc cần thực hiện gồm có:
Xác định nhu cầu đào tạo, tiến hành đào tạo, nâng cao nhận thức cho ban lãnh đạo cũng như người lao động.
Thiết lập và triển khai hệ thống thông tin nội bộ cũng như bên ngoài liên quan đến hệ thống quản lý năng lượng.
Xây dựng và kiểm soát hệ thống tài liệu, hồ sơ phục vụ cho việc kiểm soát hệ thống quản lý môi trường cũng như cung cấp thông tin đầu vào cho việc xem xét của lãnh đạo sau này.
Xác định và tiến hành kiểm soát đối với các hoạt động của tổ chức liên quan đến việc tiêu thụ năng lượng đáng kể để đảm bảo các hoạt động này được tiến hành trong những điều kiện riêng biệt.
Các cơ hội để cải tiến hiệu suất sử dụng năng lượng cần được xem xét trong quá trình thiết kế hoặc mua hàng của tổ chức.
Bước 4: Kiểm tra
Giai đoạn này nhằm đánh giá tính hiệu quả của hệ thống và cung cấp dữ liệu cho xem xét của lãnh đạo. Giai đoạn này gồm các công việc:
Giám sát, đo lường và phân tích các yếu tố của HTQLNL nhằm đạt được các mục tiêu đã đặt ra, hiệu quả hoạt động của các quá trình so với các tiêu chí đã đặt ra.
Đánh giá sự tuân thủ đối với luật định hoặc các quy định khác mà tổ chức phải thực hiện.
Tiến hành định kỳ đánh giá nội bộ trong tổ chức để đảm bảo hệ thống phù hợp với các yêu cầu trong tiêu chuẩn ISO 50001.
Tiến hành xác định các đểm không phù hợp đã có hoặc có thể xảy ra, thực hiện sự khắc phục cần thiết, tiến hành các hành động khắc phục và hành động phòng ngừa.
Có quy trình kiểm soát hồ sơ
Bước 5: Xem xét của lãnh đạo
Ban lãnh đạo của tổ chức cần định kỳ tiến hành xem xét dựa vào những dự liệu đo lường trong quá trình vận hành, kết quả đánh giá nội bộ, mục tiêu và chỉ tiêu đã đề ra từ đó đưa ra những thay đổi trong HTQLNL để phù hợp với tình hình mới.
VPC