Hiển thị các bài đăng có nhãn năng lượng gió. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn năng lượng gió. Hiển thị tất cả bài đăng

Thứ Ba, 28 tháng 5, 2013

Khả năng cạnh tranh của năng lượng gió (Kỳ 2)


PDF.InEmail
Phuchoiacquy - Phong điện còn rất nhiều tiềm năng, nhưng để cho loại năng lượng tái tạo này có thể đi vào cuộc sống cần có những chế tài hữu hiệu. Trước mắt cần thực hiện cam kết trong cơ chế phát triển sạch là Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN) cam kết mua điện ở giá 6,8cent /kWh, thêm 1cent /kWh từ quỹ phát triển sạch. Việc phát triển phong điện bên cạnh ý nghĩa kinh tế nó còn có ý nghĩa đặc biệt quan trọng về môi trường. Một nguồn năng lượng sạch sẽ giúp chúng ta cải thiện môi trường sống và quan trọng hơn ít phụ thuộc vào nguồn nước mà cứ mỗi mùa khô đến thêm nỗi lo mất điện.
Các yếu tố ảnh hưởng đến khả năng cạnh tranh của điện gió
Yếu tố chính sách
Chính phủ và nhân dân bày tỏ sự ủng hộ phát triển điện gió, đặc biệt năng lượng gió sẽ đáp ứng nhu cầu điện đang tăng nhanh. Khung thể chế cho phát triển Năng lượng tái tạo đang được xây dựng. Mục tiêu của phát triển điện gió ở Việt Nam là 5%, trong tổng sản lượng điện vào năm 2020 và 11% vào năm 2050.
Một nội dung chính của cơ chế khuyến khích được phê duyệt để thúc đẩy phát triển điện gió là giá điện quy định (FIT). FIT bằng 7,8 US cent/kWh. Trong đó, EVN (Tập đoàn Điện lực Việt Nam) có nghĩa vụ mua điện từ các dự án điện gió ở mức giá 6,8USc/kWh. Bù giá từ ngân sách nhà nước cho chủ đầu tư dự án điện gió là 0,1UScent/ kWh (từ Quỹ bảo vệ Môi trường Việt Nam). Ngoài ra, cơ chế hỗ trợ này cũng bao gồm giảm và miễn thuế thu nhập doanh nghiệp, thuế nhập khẩu, phí sử dụng đất, VAT và phí môi trường.
Giá carbon
Giá car bon cao là một trong những động lực chính thúc đẩy sử phát triển của điện gió. Ngược lại giá carbon thấp là một trong những yếu tố chính kéo lùi những nỗ lực phát triển điện gió nói riêng cũng như phát triển năng lượng mới tái tạo nói chung. Với giá carbon là 30 USD cho một tấn CO2 quy đổi như hiện nay điện gió có khả năng cạnh tranh với các dạng năng lượng hóa thạch khác...xem Bảng ... tính cạnh tranh này giảm mạnh khi giá carbon giảm xuống dưới mức 20 USD cho tấn CO2 quy đổi.
Mục tiêu phát triển bền vững
Thúc đẩy các khả năng kinh tế
Các dự án nhỏ và phân tán sẽ đóng vai trò quan trọng trong chương trình điện khí hoá nông thôn.
Khai phóng tiềm năng phong điện sẽ mang lại nguồn lợi lớn cho địa phương và cả nước. Thông qua việc phát triển phong điện, kết cấu hạ tầng khu vực cũng sẽ được đầu tư xây dựng đồng bộ và hiện đại với tốc độ rất nhanh.
Bảo tồn các hệ sinh thái
Phong điện sử dụng năng lượng của sức gió để phát điện, mà không làm cạn kiệt các nguồn tài nguyên thiên nhiên, cũng không làm biến đổi các đặc tính của không khí sử dụng.
Linh hoạt
Trong cung cấp điện năng, phong điện là nguồn cung ứng linh hoạt, bởi khả năng điều chỉnh công suất.
Tương đối sạch
So với nhiệt điện, phong điện cung cấp một nguồn năng lượng sạch, hầu như không phát khí thải gây hiệu ứng nhà kính.
Góp phần vào phát triển bền vững.
Về khía cạnh bền vững, thuỷ năng có tiềm năng rất lớn về bảo tồn hệ sinh thái, cải thiện khả năng kinh tế và tăng cường sự công bằng xã hội.
Giảm phát thải
Bằng cách sử dụng nguồn năng lượng gió thay vì các loại nhiên liệu hoá thạch (đặc biệt là than), phong điện giảm bớt ô nhiễm môi trường, giảm bớt các trận mưa axít, giảm axit hoá đất và các hệ thống thủy sinh.
Trình độ phát triển công nghệ điện gió
Trong khí các công nghệ sản xuất điện từ nhiên liệu hóa thạch về cơ bản đã đến điểm bão hòa về khả năng phát triển, cải thiện công nghệ, thì công nghiệp sản xuất điện gió được xem như là công nghệ mới tái tạo, đang thực hiện những bước đi ban đầu, còn khá nhiều tiềm năng cải thiện. Bài viết này sẽ đưa ra các giả định cải thiện công nghệ trong tương lai.
Ví dụ minh họa về khả năng cạnh tranh của năng lượng gió
Thông số ban đầu
Các thông số này là thông số của nhà máy điện gió quy mô công nghiệp đầu tiên của Việt Nam. Nhà máy Phong điện 1, xã Bình Thạnh và Phú Lạc, huyện Tuy Phong, tỉnh Bình Thuận. Với công suất đặt 30 MW, tổng mức đầu tư 70 triệu USD. Sản lượng điện hàng năm là 85 triệu kWh. Giá bán điện là 6 cent/kWh. Giá bán carbon là 30 USD/ tấn CO2. Lượng carbon hàng năm có thể bán là 85.000 tấn. Các thông số giả định thêm. Chi phí O&M hàng năm dự tính là 1% so với tổng vốn đầu tư. Tuổi thọ dự án giả định là 25 năm.
Tính toán phương án cơ sở
Sau khi tính toán chúng ta có NPV (10%, 25 năm) là -30,06 triệu USD (chưa tính lợi ích do bán Carbon. Chưa có hiệu quả.
Giá thành sản xuất khoảng 9,896 cent/kWh. Chưa có khả năng cạnh tranh với các loại năng lượng hóa thạch khác.
NPV (10%, 25 năm) là -6,91 triệu USD (tính thêm lợi ích do bán Carbon.
Lợi ích này hàng năm là khoảng 2,55 triệu USD và tính cho 25 năm là 23,15 triệu USD. Vẫn chưa có hiệu quả.
Tuy chưa có hiệu quả nhưng có thể thấy việc bán được CO2 giúp cải thiện đáng kể tính hiệu quả của dự án.
Các yếu tố ảnh hưởng đến hiệu quả và khả năng cạnh tranh của dự án phong điện
Ảnh hưởng của yếu tố giá bán điện:
Bảng 2.1. Ảnh hưởng của giá bán điện
Có thể thấy yếu tố giá bán điện có ảnh hưởng lớn đến hiệu quả dự án. Hệ số đàn hồi là 1,54. Ảnh hưởng đồng biến. Khi giá bán điện tăng đến 7,8 cent/kWh (như cam kết của cơ chế thúc đẩy sự phát triển điện gió ), điện gió hoàn toàn có khả năng cạnh tranh với các dạng năng lượng khác nếu tính đến lợi ích từ việc bán CO2 (23,15 triệu USD).
Ảnh hưởng của yếu tố giá bán CO2:
Bảng 2.2. Ảnh hưởng của giá bán CO2
Có thể thấy, nếu giá bán CO2 giảm, khả năng cạnh tranh của phong điện sẽ bị suy giảm đáng kể. Hệ số đàn hồi là 3,35. Ảnh hưởng đồng biến. Với mức giá từ 25 USD/tấn CO2, điện gió hoàn toàn có khả năng cạnh tranh. Tuy nhiên, gần đây trên thị trường thế giới, đang có những diễn biến bất lợi cho sự phát triển của điện gió... Giá CO2 giảm mạnh.
Ảnh hưởng của khả năng phát triển công nghệ chế tạo
Với sự phát triển của khoa học công nghệ, trong tương lai không xa, công nghiệp phong điện sẽ có những bước tiến đáng kể. Hy vọng rằng với sự trợ giúp của khoa học công nghệ, tổng mức đầu tư của điện gió sẽ giảm đáng kể.
Bảng 2.3 Ảnh hưởng của tổng mức đầu tư
Từ bảng 2.3 có thể thấy, nếu tổng mức đầu tư có thể giảm khoảng từ 10% trở lên thì giá điện gió hoàn toàn có khả năng cạnh tranh với các dạng năng lượng khác. Hệ số đàn hồi là 2,3. Ảnh hưởng nghịch biến. Vốn đầu tư giảm hiệu quả tăng.
Phân tích ảnh hưởng tổng hợp của các yếu tố
Sử dụng phần mềm Crystal ball chúng ta có các kết quả tính toán như sau:
Chỉ có 15,42% khả năng dự án phong điện này có tính khả thi.
Các yếu tố ảnh hưởng lớn đến hiệu quả tương ứng là giá bán carbon, giá bán điện và cuối cùng là tổng mức đầu tư. Trong đó, tổng mức đầu tư có ảnh hưởng nghịch biến.
Các yếu tố ảnh hưởng lớn đến giá thành sản xuất điện năng tương ứng là sản lượng điện, giá bán carbon, giá bán điện, tổng mức đầu tư và cuối cùng là chi phí OM. Trong đó, tổng mức đầu tư chi phí OM có ảnh hưởng đồng biến…
Chỉ có 27,14 % khả năng dự án này có giá thành dưới mức 7,8 cent/kWh (so với giá cam kết đã có tính đến lợi ích do bán Carbon..).
Lời kết
Phong điện còn rất nhiều tiềm năng nhưng để cho loại năng lượng tái tạo này có thể đi vào cuộc sống cần có những chế tài hữu hiệu. Trước mắt cần thực hiện cam kết trong cơ chế phát triển sạch là EVN cam kết mua điện ở giá 6,8cent /kWh, thêm 1cent /kWh từ quỹ phát triển sạch. Việc phát triển phong điện bên cạnh ý nghĩa kinh tế nó còn có ý nghĩa đặc biệt quan trọng về môi trường. Một nguồn năng lượng sạch sẽ giúp chúng ta cải thiện môi trường sống và quan trọng hơn ít phụ thuộc vào nguồn nước mà cứ mỗi mùa khô đến thêm nỗi lo mất điện.
NangluongVietnam

Thứ Ba, 21 tháng 5, 2013

Khả năng cạnh tranh của năng lượng gió (Kỳ 1)



PDF.InEmail
Phuchoiacquy - Trong mối quan hệ giữa sản xuất điện với phát triển kinh tế - xã hội và bảo vệ môi trường, những gì diễn ra trong xu thế phát triển toàn cầu đã minh chứng rằng cách làm chủ quan, nóng vội và thiếu cân nhắc trong đánh giá tác động môi trường đều phải trả giá quá đắt cho những thảm họa khôn lường của những năm sau. Đi tìm sự hài hòa giữa phát triển điện năng với tăng trưởng kinh tế  và bảo vệ môi trường là vấn đề cấp bách. Nó không chỉ đặt ra ở tầm quốc gia, khu vực mà mang ý nghĩa hợp tác toàn cầu.
GVC.TS. PHẠM THỊ THU HÀTrường Đại học Bách khoa Hà Nội

Tại thời điểm hiện nay, phong điện có nhiều lợi thế cạnh tranh,
với các nhà máy điện sử dụng nhiên liệu hóa thạch, hay thủy điện...
Tổng quan về nguồn điện hiện nay tại Việt Nam
Tổng công suất đặt các nguồn điện trong hệ thống điện quốc gia tính đến hết năm 2011 là 24.559MW (bao gồm 23.559MW công suất các nhà máy điện và 1.000MW nhập khẩu từ Trung Quốc), trong đó thủy điện chiếm tỷ trọng cao nhất (41,2%), nhiệt điện khí chiếm tỷ trọng thấp nhất (1,9%) trong 23.559 MW tổng công suất các nhà máy điện, Tập đoàn Điện lực Việt Nam - EVN sở hữu 100% vốn, hoặc giữ cổ phần chi phối các nhà máy điện, có tổng công suất là 14.026 MW, chiếm 57,1%; các nguồn điện BOT nước ngoài là 2.265 MW, chiếm khoảng 9,2%, và các nguồn IPP trong nước (do các tổng công ty, tập đoàn Nhà nước, các nhà đầu tư tư nhân nhỏ lẻ khác) là 7.269 MW, chiếm tỷ trọng 33,7%. Cụ thể, phân loại nguồn điện loại hình và theo chủ sở hữu như hình sau:
Phân loại nguồn điện theo loại hình sản xuất

Nguồn: Viện Năng lượng
• Vùng Đông Bắc có NLMT thấp nhất.
• Tây Bắc và Bắc Trung bộ: khá.
• Từ Đà Nẵng trở vào: NLMT có tiềm năng rất tốt.
Nói chung NLMT ở Việt Nam có tiềm năng tốt và có khả năng khai thác ứng dụng hiệu quả. Tuy nhiên, hiện nay suất vốn đầu tư còn khá cao, khoảng 4 triệu - 5 triệu USD cho 1MW công suất đặt, trong khi đó các nhà máy điện truyền thống sử dụng nhiên liệu hóa thạch, hoặc thủy điện lớn chỉ khoảng 0,8 đến 1,4 triệu USD cho 1MW công suất đặt.
Theo ý kiến của nhiều chuyên gia, trước thập kỷ thứ hai của thế kỷ này, các nhà máy điện sử dụng năng lượng mặt trời chưa có đủ sức cạnh tranh trên thị trường Việt Nam.
Tổng quan về phong điện ở Việt Nam
Theo các kết quả đánh giá tiềm năng gió của Ngân hàng Thế giới (2001) thông qua một nghiên cứu được thực hiện cho bốn quốc gia trong khu vực Đông Nam Á, Việt Nam được xác định là quốc gia có tiềm năng gió lớn nhất so với các nước láng giềng trong khu vực như: Lào, Campuchia và Thái Lan. Tiềm năng năng lượng gió của Việt Nam được ước tính vào khoảng 513,360 MW, cao hơn gấp sáu lần so với tổng công suất dự báo của ngành điện vào năm 2020.
Trong đó, những khu vực hứa hẹn nhất cho phát triển điện gió chủ yếu nằm ở các vùng ven biển và cao nguyên miền nam Trung bộ và miền Nam của Việt Nam.
Cũng theo nghiên cứu của Ngân hàng Thế giới, ước lượng khoảng 8,6% tổng 3 diện tích lãnh thổ Việt Nam có tiềm năng gió với mức từ “cao” đến “rất cao”, phù hợp cho việc triển khai tuabin gió cỡ lớn (với tốc độ gió trên 7 m/s).
Trong giai đoạn 2005 - 2030, nhu cầu năng lượng của Việt Nam sẽ tăng 4 lần. Nhu cầu điện của Việt Nam tăng 10%/năm, đến năm 2025. Do đó, Chính phủ Việt Nam đã nhận thấy tầm quan trọng của Năng lượng tái tạo và lập Tổng sơ đồ phát triển năng lượng tái tạo dài hạn. Ngoài ra, phát triển Năng lượng tái tạo ở Việt Nam còn mang lại nhiều lợi ích như, kích thích phát triển nông thôn và tạo các cơ hội việc làm, cải thiện đường xá nông thôn, giảm nhiệt điện, do đó giảm chi phí môi trường từ các dự án sử dụng nhiên liệu hóa thạch.
Trong trường hợp phát triển điện gió, Việt Nam có tiềm năng gió cao so với các nước trong khu vực Đông Nam Á. Tổng tiềm năng năng lượng gió là 1.750MW. Tốc độ gió trung bình ở khu vực có gió tốt là 6m/s ở độ cao 60m.
Tiềm năng gió cao hơn ở miền Trung và miền Nam của đất nước (đặc biệt ở Tây Nguyên, hải đảo và các khu vực ven biển), tương ứng khoảng 880MW và 855MW. Ở miền Bắc, tiềm năng khoảng 50MW. Hiện nay, có một trang trại điện gió với tổng công suất 30 MW đang vận hành và một trang trại điện gió công suất 90 MW đang xây dựng.
Chính phủ và nhân dân bày tỏ sự ủng hộ phát triển điện gió, đặc biệt năng lượng gió sẽ đáp ứng nhu cầu điện đang tăng nhanh. Khung thể chế cho phát triển năng lượng tái tạo đang được xây dựng. Mục tiêu của phát triển điện gió ở Việt Nam là 5% trong tổng sản lượng điện vào năm 2020 và 11% vào năm 2050.
Một nội dung chính của cơ chế khuyến khích được phê duyệt để thúc đẩy phát triển điện gió là giá điện quy định (FIT). FIT bằng 7,8 US cent/kWh. Trong đó, EVN có nghĩa vụ mua điện từ các dự án điện gió ở mức giá 6,8USc/kWh. Bù giá từ ngân sách Nhà nước cho chủ đầu tư dự án điện gió là 0,1UScent/ kWh (từ Quỹ bảo vệ Môi trường Việt Nam). Ngoài ra, cơ chế hỗ trợ này cũng bao gồm giảm và miễn thuế thu nhập doanh nghiệp, thuế nhập khẩu, phí sử dụng đất, VAT và phí môi trường.
Tóm lại, những bước đầu tiên và những khuyến khích đã được thực hiện đối với phát triển điện gió trong 5 năm gần đây. Tuy nhiên, có nhiều việc cần phải làm trước khi năng lượng gió đóng vai trò quan trọng trong phát triển năng lượng bền vững ở Việt Nam trong tương lai. Đã có ý chí chính trị, nhưng cần nhiều hơn những biện pháp cụ thể trong các năm tới cho phát triển điện gió ở Việt Nam.
Tại thời điểm hiện nay, phong điện có nhiều lợi thế cạnh tranh, với các nhà máy điện sử dụng nhiên liệu hóa thạch hay thủy điện lớn hơn nhà máy điện sử dụng năng lượng mặt trời. Ước tính suất chi phí đầu tư khoảng 2 đến 2,5 triệu USD cho 1MW công suất đặt… hiện nay, công suất đặt của điện gió là 30MW, tương đương dưới 1% so với tổng công suất của hệ thống điện Việt Nam.
Kỳ 2: Các yếu tố ảnh hưởng đến khả năng cạnh tranh của điện gió
NangluongVietnam.